Ung thư biểu mô miệng là một trong những ung thư phổ biến nhất thế giới
06/08/2015 | 07:57 AM



Ung thư biểu mô (UTBM) miệng là loại u ác tính phát sinh từ niêm mạc phủ trong miệng ở bất kỳ vị trí nào như môi, má, lưỡi, lợi, tam giác sau hàm, sàn miệng, vòm miệng và họng miệng.
Những năm gần đây, việc tiếp xúc với ngày càng nhiều các sản phẩm có nguy cơ ung thư cao như thuốc lá, rượu, hóa chất trong thực phẩm…làm tăng đáng kể số bệnh nhân ung thư biểu mô miệng.
Trước đây, các ung thư này thường gặp ở nam giới, tỉ lệ nam/nữ là 4/1 và hay gặp ở lứa tuổi trên 50. Tuy nhiên, gần đây số phụ nữ mắc bệnh ngày càng tăng lên đáng kể với tỉ lệ nam/nữ là 2/1 đồng thời độ tuổi có xu hướng trẻ hơn. Thống kê trên thế giới cho thấy ung thư biểu mô miệng đứng thứ sáu trong những ung thư phổ biến nhất, ước tính hàng năm có hơn 500.000 trường hợp mắc ung thư mới và hai phần ba số trường hợp này xảy ra ở các nước đang phát triển. Việc điều trị ung thư miệng không chỉ tăng thời gian sống thêm mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị. Phát hiện sớm và điều trị thích hợp là vũ khí quan trọng nhất chống lại ung thư miệng. Hiện nay, phẫu thuật và xạ trị là hai phương pháp điều trị chính, nó phụ thuộc vào vị trí, kích thước và giai đoạn của tổn thương. Phương pháp điều trị bằng hóa chất thường được sử dụng phối hợp với phẫu thuật và xạ trị ở giai đoạn muộn.
Phẫu thuật là phương pháp chính trong điều trị ung thư miệng, lấy đi toàn bộ tổn thương cùng với hệ thống hạch. Xạ trị cũng mang một ý nghĩa quan trọng là điều trị triệt căn ở giai đoạn sớm và phối hợp hiệu quả với phẫu thuật để nâng cao hiệu quả kiểm soát tại chỗ tốt nhất cho bệnh nhân. Mặc dù tia xạ có thể được sử dụng để kiểm soát bệnh tương tự như phương pháp phẫu thuật nhưng những tác dụng phụ nó để lại nặng nề hơn so với phương pháp phẫu thuật trong hầu hết các trường hợp. Giai đoạn muộn việc lựa chọn phương pháp nào đầu tiên phải được cân nhắc và phải phối hợp các phương pháp điều trị để nâng cao hiệu quả. Ở giai đoạn I và II của ung thư miệng phương pháp phẫu thuật đơn thuần thường được áp dụng, ở giai đoạn muộn III và IV cần phối hợp nhiều phương pháp. Ung thư môi thường được chẩn đoán ở giai đoạn sớm do vậy hầu hết được điều trị bằng phẫu thuật, ung thư lưỡi và sàn miệng thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn và di căn sớm hơn nên thường phối hợp nhiều phương pháp điều trị.
Ngày nay, ngoài phẫu thuật lấy rộng khối u và nạo vét hạch cổ, vai trò của phẫu thuật tạo hình sau phẫu thuật điều trị khối u nguyên phát cũng rất quan trọng. Phẫu thuật tạo hình giúp phẫu thuật viên cắt rộng tổn thương đúng mức nhằm cản thiện tiên lượng sống còn và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân nhờ vào việc phục hồi chức năng và thẩm mĩ. Phẫu thuật khối u nguyên phát có vét hạch cổ thường gặp trong điều trị ung thư lưỡi, phẫu thuật cắt khối u nguyên phát không kèm theo vét hạch cổ hay gặp ở các vị trí như môi, vòm miệng cứng. Phẫu thuật tạo hình sau cắt u nguyên phát được áp dụng nhiều ở các vị trí như môi, má và sàn miệng. Trong 655 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có 244 bệnh nhân được vét hạch. Tất cả các trường hợp đều được vét hạch bảo tồn.
Xạ trị được chỉ định sau khi phẫu thuật, tia xạ đơn thuần với khối u không còn khả năng phẫu thuật. Xạ trị tiền phẫu rất hiếm được sử dụng trong ung thư miệng, xạ trị hậu phẫu cho phép phẫu thuật dễ dàng và lành thương tốt hơn trên mô không bị tổn thương bởi sự xơ hóa do xạ trị.
Tỷ lệ tái phát khác nhau giữa các khu vực trong miệng. Giai đoạn bệnh có ảnh hưởng nhiều tiên lượng tái phát của ung thư miệng. Khả năng di căn xa của một ung thư phụ thuộc vào sự phát triển của một loạt các biến đổi gen, cho phép tế bào ung thư phát tán từ khối u nguyên phát vào hệ thống vi tuần hoàn, thâm nhập vào mô đệm, sống sót và sinh sản.
Phương pháp phẫu thuật đơn thuần được sử dụng nhiều nhất và thường được áp dụng ở giai đoạn sớm. Phương pháp xạ trị đơn thuần và phối hợp các phương pháp thường được áp dụng ở giai đoạn muộn. Ung thư biểu mô lưỡi có tỷ lệ phẫu thuật cắt u nguyên phát kèm theo vét hạch cổ cao nhất. Phẫu thuật tạo hình sau cắt u nguyên phát được áp dụng nhiều nhất ở môi, má và sàn miệng. Vét hạch bảo tồn được sử dụng trong tất cả các trường hợp được nạo vét hạch cổ.
Tin liên quan
- Việt Nam nhất quán thúc đẩy di cư quốc tế hợp pháp, an toàn
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương tri ân các đối tác đã đồng hành trong chặng đường phát triển Bệnh viện
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch mới nhất
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương chào đón công dân nhí đầu tiên năm 2025
- Khánh thành hệ thống tự động hoàn toàn cho phòng xét nghiệm tại Việt Nam
- Xanh - sạch - đẹp ở Bệnh viện Phổi Thanh Hóa
- Trao giải cuộc thi “Cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp” lần thứ nhất năm 2024