Tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng xã hội hoá cung cấp phương tiện tránh thai đến năm 2030
28/10/2020 | 14:37 PM



Việc xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và hàng hóa KHHGĐ/SKSS; cung cấp dịch vụ KHHGĐ/SKSS là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đây được coi là một trong những giải pháp huy động, đóng góp của xã hội, tăng đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ, để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ về công tác dân số trong tình hình mới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mỗi năm dân số Việt Nam tăng thêm gần 1 triệu người. Trong những năm tới, số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) vẫn sẽ tiếp tục gia tăng và dự báo sẽ đạt cực đại vào năm 2027-2028. Nhu cầu sử dụng các phương tiện tránh thai cũng tăng.
Hơn nữa, thực trạng tuổi dậy thì có xu hướng sớm hơn trước kia, đồng thời tuổi quan hệ tình dục lần đầu ngày càng giảm dẫn đến nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai cũng có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên, hiện nay, nhu cầu chưa được đáp ứng về các dịch vụ KHHGĐ cũng như sử dụng các phương tiện tránh thai còn lớn.
Đẩy mạnh truyền thông xã hội hóa phương tiện tránh thai tại xã Thủy Phù, Thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Ảnh: Minh Hy
Việc thiếu hụt phương tiện tránh thai sẽ làm giảm tỷ lệ sử dụng tránh thai và hậu quả tất yếu là không khống chế được mức sinh, ngoài ra còn làm tăng nạo phá thai và hậu quả là tăng tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em.
Theo một nghiên cứu của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNFPA), nếu thiếu 1 triệu USD (tương đương khoảng 23 tỷ đồng) trong việc hỗ trợ phương tiện tránh thai sẽ dẫn đến hậu quả làm tăng thêm 360.000 ca có thai ngoài ý muốn; 150.000 ca nạo phá thai; 800 ca tử vong mẹ và 11.000 ca tử vong trẻ sơ sinh.
ThS.BS Phạm Hồng Quân, Giám đốc Ban Quản lý
Đề án 818
(Tổng cục Dân số) cho biết, trước đây, người dân thực hiện chính sách KHHGĐ có nhu cầu về phương tiện tránh thai đều được Nhà nước cung cấp miễn phí. Tuy nhiên, hiện nay, việc các đối tượng được cấp miễn phí phương tiện tránh thai đã được thu hẹp quy định.
Mặt khác, kinh phí để mua phương tiện tránh thai cấp miễn phí trước năm 2010 về cơ bản là được tài trợ từ các nguồn vốn nước ngoài (ODA), song từ năm 2011 đến nay Việt Nam đã đạt được thu nhập bình quân đầu người tăng ở mức trung bình khá nên không còn thuộc diện được nhận viện trợ từ các nguồn vốn ODA.
Theo thống kê, đến nay, ngân sách Nhà nước cấp để mua phương tiện tránh thai khoảng từ 35-45 tỷ đồng/năm (đạt 10% so với nhu cầu) và đang có xu hướng giảm dần. Như vậy, đây là một khoảng trống trong việc đáp ứng đầy đủ kịp thời, đa dạng các phương tiện tránh thai trong bối cảnh nhu cầu của người dân ngày càng tăng cao.
Để giải quyết khoảng trống này, ThS.BS Phạm Hồng Quân nhấn mạnh: "Việc xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và hàng hóa KHHGĐ/SKSS; cung cấp dịch vụ KHHGĐ/SKSS là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đây được coi là một trong những giải pháp huy động, đóng góp của xã hội, tăng đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ, để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ về công tác dân số được Đảng và Nhà nước giao phó".
Theo ThS.BS Phạm Hồng Quân, nhận thức được tầm quan trọng của việc xã hội hóa, ngày 12/3/2015, Bộ trưởng Bộ Y tế đã phê duyệt Đề án "Xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và dịch vụ KHHGĐ/SKSS tại khu vực thành thị và nông thôn phát triển giai đoạn 2015-2020" (gọi tắt là Đề án 818). Sau 4 năm triển khai (2015 - 2019), Đề án 818 đã đạt được nhiều kết quả bước đầu, góp phần cung cấp các sản phẩm, hàng hóa phương tiện tránh thai, dịch vụ KHHGĐ có chất lượng đến với người dân.
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được của Đề án 818, ngày 25/2/2019, Bộ Y tế đã có Quyết định số 718/QĐ-BYT phê duyệt Đề án tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng xã hội hoá cung cấp phương tiện tránh thai, hàng hoá và dịch vụ KHHGĐ/SKSS đến năm 2030 (Đề án 818 mở rộng). Đề án có 6 nhiệm vụ chính, trong đó, tập trung vào 2 nhiệm vụ trọng tâm.
Cụ thể, tuyên truyền vận động, cung cấp thông tin tạo môi trường xã hội đồng thuận, thúc đẩy, phát triển thị trường phương tiện tránh thai, hàng hóa sức khỏe sinh sản, thị trường cung cấp dịch vụ và triển khai Đề án. Ví dụ, thường xuyên cung cấp thông tin, tư vấn trực tiếp tại cộng đồng, tổ chức các hội thảo chuyên đề, cung cấp thông tin cho lãnh đạo cấp ủy, chính quyền và đoàn thể; thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ truyền thông, giao lưu trực tuyến với độc giả…
Bên cạnh đó, xây dựng và hoàn thiện chính sách khuyến khích xã hội hóa và phát triển sản phẩm, dịch vụ của Đề án. Chẳng hạn, trên các cơ sở, chính sách đã được ban hành về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và hàng hóa sức khỏe sinh sản nói riêng cần thí điểm các mô hình khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị tư nhân tham gia sản xuất, nhập khẩu, phân phối các sản phẩm Đề án.
Nguồn: Báo Gia đình xã hội
Tin liên quan
- Việt Nam nhất quán thúc đẩy di cư quốc tế hợp pháp, an toàn
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương tri ân các đối tác đã đồng hành trong chặng đường phát triển Bệnh viện
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch mới nhất
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương chào đón công dân nhí đầu tiên năm 2025
- Khánh thành hệ thống tự động hoàn toàn cho phòng xét nghiệm tại Việt Nam
- Xanh - sạch - đẹp ở Bệnh viện Phổi Thanh Hóa
- Trao giải cuộc thi “Cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp” lần thứ nhất năm 2024