Thông tin cập nhật về sốt rét trên thế giới đầu năm 2015
03/11/2015 | 03:52 AM



WHO cho biết tỷ lệ tử vong sốt rét đã giảm 47% trên toàn cầu kể từ năm 2000 và 54% ở khu vực châu Phi của WHO, hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ em sống ở châu Phi, nơi cứ mỗi phút có một trẻ em chết do bệnh sốt rét,tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em Châu Phi đã giảm khoảng 58% kể từ năm 2000.Sốt rét do ký sinh trùng Plasmodium gây ra,các ký sinh trùng này lây lan sang người qua vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm bệnh, gọi là "vectơ sốt rét" (malaria vectors) và muỗi đốtchủ yếu vào lúc chập choạng và bình minh.Có 4 loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét ở người là Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium malariae,Plasmodium ovale. Trong đó Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax là phổ biến nhất, Plasmodium falciparum gây chết người nhiều nhất. Những năm gần đây, một số trường hợp mắc sốt rét cũng đã xảy ra với Plasmodium knowlesi-loài gây bệnh sốt rét ở khỉ đã xảy ra tại một số khu rừng của Đông Nam Á.
Sự lan truyền (Transmission)
Sốt rét lây truyền chủ yếu thông qua các vết cắn của muỗi Anopheles. Cường độ lan truyền phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến ký sinh trùng, vector, vật chủ người, và môi trường. Khoảng 20 loài Anopheles khác nhau là quan trọng tại chỗ trên thế giới. Tất cả các loài vector quan trọng cắn vào ban đêm. Muỗi Anopheles sinh sản trong nước và mỗi loài có sở thích sinh đẻ cho riêng mình; Ví dụ một số thích sinh đẻ ở vùng nước ngọt cạn như vũng nước, ruộng lúa, và dấu chân động vật. Sự lan truyền mạnh hơn ở những nơi mà tuổi thọ của muỗi dài hơn (vì vậy mà ký sinh trùng có thời gian để hoàn thành phát triển của nó bên trong muỗi) và nơi mà nó thích đốt người chứ không phải là các loài động vật khác. Ví dụ, tuổi thọ dài và tập tính thích hút máu người của các loài vector ở châu Phi là lý do chính tại sao khoảng 90% các ca tử vong sốt rét trên thế giới là ở châu Phi. Sự lan truyền cũng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu có thể ảnh hưởng đến số lượng và sự sống còn của muỗi, chẳng hạn như lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm. Ở nhiều nơi, sự lan truyền theo mùa, với đỉnh cao trong và ngay sau mùa mưa. Dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra khi khí hậu và các điều kiện khác đột nhiên có lợi cho việc lan truyền trong khu vực, nơi mà mọi người có ít hoặc không có miễn dịch với sốt rét. Dịch bệnh cũng có thể xảy ra khi những người có khả năng miễn dịch thấp di chuyển vào khu vực có sự lây truyền bệnh sốt rét dữ dội, ví dụ để tìm kiếm việc làm, hoặc là người tị nạn. Khả năng miễn dịch của con người là một yếu tố quan trọng khác, đặc biệt là ở người lớn tại các khu vực có các điều kiện lan truyền vừa phải hoặc dữ dội. Miễn dịch một phần được phát triển qua nhiều năm phơi nhiễm, và trong khi nó không bao giờ cung cấp sự bảo vệ hoàn toàn, và nó làm giảm nguy cơ mà khi nhiễm bệnh sốt rét sẽ gây ra bệnh nghiêm trọng. Vì lý do này, hầu hết các trường hợp tử vong sốt rét ở châu Phi xảy ra ở trẻ nhỏ, trong khi ở khu vực có sự lan truyền ít và khả năng miễn dịch thấp thì tất cả các nhóm tuổi đều có nguy cơ.
Các triệu chứng (Symptoms)
Sốt rét là một bệnh cấp tính có sốt, trong một cá thể không có miễn dịch các triệu chứng xuất hiện trong vòng bảy ngày hoặc nhiều hơn (thường là 10-15 ngày) sau khi muỗi bị nhiễm cắn người. Các triệu chứng đầu tiên - sốt, đau đầu, ớn lạnh và ói mửa - có thể nhẹ và khó khăn để nhận ra là sốt rét, nếu không được điều trị trong vòng 24 giờ, P. falciparum có thể tiến triển thành bệnh nặng và thường dẫn đến tử vong. Trẻ em bị sốt rét nặng thường phát triển một hoặc nhiều các triệu chứng sau đây: thiếu máu nặng, suy hô hấp liên quan đến nhiễm toan chuyển hóa, hoặc sốt rét thể não. Ở người lớn, sự liên quan của nhiều cơ quan cũng là thường xuyên. Trong khu vực lưu hành bệnh sốt rét, con người có thể phát triển một phần khả năng miễn dịch, cho phép nhiễm trùng mà không có triệu chứng xảy ra. Đối với cả P. vivax và P. ovale, tái phát bệnh có thể xảy ra vài tuần đến vài tháng sau khi nhiễm bệnh đầu tiên, ngay cả khi bệnh nhân đã rời khỏi vùng dịch tễ sốt rét. Những sự bộc phát mới phát sinh từ thể ẩn ở gan và được gọi là hypnozoites (không có ở P. falciparum và P. malariae); điều trị đặc biệt nhắm vào những giai đoạn gan này là cần thiết cho một sự chữa trị khỏi hoàn toàn.
Ai là đối tượng có nguy cơ? (Who is at risk?)
Khoảng một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét,hầu hết các trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong xảy ra ở vùng cận Saharan châu Phi. Tuy nhiên, châu Á, Mỹ Latinh và đến một mức độ thấp hơn Trung Đông và châu Âu cũng bị ảnh hưởng. Trong năm 2014, có 97 quốc gia và vùng lãnh thổ có sự lan truyền bệnh sốt rét đang diễn ra. Nhóm quần thể nguy cơ đặc biệt bao gồm trẻ em sống trong các khu vực có sự lan truyền ổn định nhưng chưa được phát triển miễn dịch bảo vệ chống lại các thể nghiêm trọng nhất của bệnh; phụ nữ mang thai không có miễn dịch bởi vì bệnh sốt rét gây ra tỉ lệ sẩy thai cao và có thể dẫn đến tử vong mẹ; phụ nữ mang thai bán miễn dịch sống trong các khu vực có sự lan truyền cao, bệnh sốt rét có thể dẫn đến sẩy thai và cân nặng khi sinh thấp, đặc biệt là trong lần mang thai đầu tiên và thứ hai; phụ nữ nhiễm HIV bán miễn dịch sống ở các khu vực có sự lan truyền ổn định trong tất cả các lần mang thai, phụ nữ bị nhiễm bệnh sốt rét trong nhau thai cũng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV qua cho trẻ sơ sinh; những người có HIV / AIDS; du khách quốc tế đến từ các khu vực không lưu hành vì họ thiếu khả năng miễn dịch; người nhập cư từ các vùng dịch tễ và trẻ em đang sống trong các khu vực không lưu hành trở về nước để thăm bạn bè và người thân cũng có nguy cơ tương tự vì suy giảm hay mất miễn dịch.
Chẩn đoán và điều trị (Diagnosis and treatment)
Chẩn đoán và điều trị sốt rét sớm làm giảm bệnh và ngăn ngừa tử vong và cũng góp phần làm giảm lây truyền bệnh sốt rét. Liệu pháp tốt nhất và sẵn có, đặc biệt đối với P. falciparum, là liệu pháp kết hợp dựa vào artemisinin (artemisinin-based combination therapy_ACT). WHO khuyến cáo tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét cần được xác nhận bằng cách sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán dựa trên ký sinh trùng (hoặc kính hiển vi hoặc test chẩn đoán nhanh) trước khi điều trị. Kết quả xác nhận ký sinh trùng có thể có sẵn trong vòng 15 phút hoặc ít hơn. Điều trị chỉ dựa trên các triệu chứng chỉ nên được xem xét khi chẩn đoán ký sinh trùng là không thể. Khuyến nghị chi tiết hơn có sẵn trong "Hướng dẫn điều trị sốt rét" (ấn bản thứ hai) (Guidelines for the treatment of malaria" (second edition), một phiên bản cập nhật sẽ được công bố vào năm 2015.
Kháng thuốc sốt rét (Antimalarial drug resistance)
Đề kháng với thuốc chống sốt rét là một vấn đề tái diễn, theo đóđề kháng của P. falciparum với các loại thuốc thế hệ trước như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine (SP), trở nên phổ biến trong những năm 1970s và 1980s, phá hoại các nỗ lực phòng chống bệnh sốt rét và làm đảo chiều thành tựu về sự sống còn của trẻ.Trong những năm gần đây,ký sinh trùng kháng artemisinin đã được phát hiện tại 5 quốc gia trong khu vực tiểu vùng sông Mekong: Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Trong khi có rất nhiều yếu tố có khả năng góp phần vào sự xuất hiện và lây lan kháng thuốc thì việc sử dụng liệu pháp artemisinin đơn trị liệu bằng đường uống, được cho là một nguyên nhân quan trọng. Khi được điều trị bằng liệu pháp đơn trị liệu artemisinin bằng đườn uống thì bệnh nhân có thể ngừng điều trị sớm theo sau sự biến mất nhanh chóng các triệu chứng sốt rét. Điều này dẫn đến điều trị không đầy đủ, và những bệnh nhân như thế vẫn có ký sinh trùng dai dẳng trong máu của họ, nếu không có một loại thuốc thứ hai được đưa ra như là một phần của một sự kết hợp (như được cung cấp với một ACT) thì các ký sinh trùng đề kháng này tồn tại và có thể được truyền qua một con muỗi và sau đó đến một người khác, nếu kháng với artemisinin phát triển và lây lan đến các khu vực địa lý rộng lớn khác thì các hậu quả y tế công cộng có thể là thảm khốc.
WHO khuyến cáo giám sát thường xuyên tình trạng kháng thuốc sốt rét và hỗ trợ các nước nhằm tăng cường những nỗ lực của họ trong lĩnh vực nghiên cứu quan trọng này. Các khuyến nghị toàn diện hơn có sẵn trong "Kế hoạch toàn cầu của WHO về kiềm chế kháng Artemisine (WHO Global Plan for Artemisinin Resistance Containment_GPARC)" được phát hành vào năm 2011. Đối với các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông, WHO đã đưa ra một khuôn khổ khu vực cho hành động mang tên "Đáp ứng khẩn cấp tới sự đề kháng artemisinin ở khu vực tiểu vùng sông Mê Kông" (Emergency response to artemisinin resistance in the Greater Mekong subregion) trong năm 2013.
Dự phòng (Prevention)
Phòng chống vector là con đường chính để làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét ở cấp cộng đồng, đó là sự can thiệp duy nhất có thể làm giảm lây truyền bệnh sốt rét từ mức rất cao đến bằng không. Đối với cá nhân, bảo vệ cá nhân chống lại muỗi đốt đại diện cho sự bảo vệ đầu tiên của để phòng ngừa bệnh sốt rét, hai hình thức phòng chống vector có hiệu quả trong một loạt các trường hợp:
Màn tẩm hóa chất diệt muỗi (Insecticide-treated mosquito nets -ITNs): Màn tẩm hóa chất tồn lưu dài lâu (Long-lasting insecticidal nets -LLINs) là hình thức ưa thích của màn tẩm hóa chất diệt muỗi cho các chương trình phân phối y tế công cộng. WHO khuyến cáo bao phủ cho tất cả những người có nguy cơ cao; và trong hầu hết các nơi. Cách chi phí hiệu quả nhất để đạt được điều này là thông qua việc cung cấp LLINs miễn phí để tất cả mọi người ngủ dưới một LLIN mọi đêm.
Phun hóa chất tồn lưu trong nhà (Indoor spraying with residual insecticides): Phun hóa chất tồn lưu trong nhà (Indoor residual spraying -IRS) là một cách mạnh mẽ để nhanh chóng làm giảm lây truyền bệnh sốt rét. Tiềm năng đầy đủ của biện pháp này được thực hiện khi có ít nhất 80% số nhà trong khu vực mục tiêu được phun. Phun trong nhà có hiệu quả trong vòng 3-6 tháng, tùy thuộc vào các loại thuốc trừ sâu được sử dụng và các loại bề mặt được phun. DDT có thể có hiệu quả trong vòng 9-12 tháng trong một số trường hợp. Các loại thuốc trừ sâu phun trong nhà tồn lưu lâu hơn hiện có cũng như các lớp thuốc trừ sâu mới sử dụng trong các chương trình IRS đang được phát triển.
Thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để ngăn ngừa bệnh sốt rét. Đối với du khách, bệnh sốt rét có thể được phòng ngừa thông qua điều trị dự phòng, các thuốc này giúp ngăn chặn giai đoạn trong máu khi nhiễm trùng sốt rét, do đó ngăn ngừa bệnh sốt rét. Ngoài ra, WHO khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine cho phụ nữ mang thai sống ở các khu vực có sự lan truyền cao, tại mỗi lần khám thai theo lịch trình sau ba tháng đầu tiên. Tương tự như vậy, đối với trẻ sơ sinh sống tại các khu vực lan truyền cao của Châu Phi, 3 liều điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine được khuyến nghị cho cùng với tiêm chủng định kỳ. Năm 2012, WHO khuyến cáo dự phòng bằng hóa trị liệu theo mùa như là một chiến lược phòng chống sốt rét bổ sung cho khu vực Sahel của châu Phi. Chiến lược này liên quan đến việc sử dụng Amodiaquine hàng tháng cộng với sulfadoxine-pyrimethamine cho tất cả trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa lan truyền cao.
Kháng hóa chất diệt (Insecticide resistance)
Phần lớn sự thành công cho đến nay trong việc kiểm soát bệnh sốt rét là do phòng chống vector.Phòng chống vector phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng các pyrethroid, đó làlớp hóa chất đang được khuyến nghị sử dụng cho ITN hoặc LLINs. Trong những năm gần đây, muỗi đề kháng với pyrethroid đã xuất hiện ở nhiều nước. Ở một số vùng, kháng với tất cả 4 lớp hóa chất sử dụng trong y tế công cộng đã được phát hiện. May mắn thay, sự đề kháng này hiếm khi có liên quan với hiệu quả giảm sút, và LLINs và IRS vẫn là các công cụ có hiệu quả cao hầu như ở tất cả các nơi. Tuy nhiên, các nước trong tiểu vùng Saharan châu Phi và Ấn Độ là mối quan tâm đáng kể. Những quốc gia này đặc trưng bởi mức độ lan truyền bệnh sốt rét cao và các báo cáo cho biết sự đề kháng mang tính phổ biến. Phát triển các thuốc diệt côn trùng mới và khác là một ưu tiên cao và một số sản phẩm hứa hẹn đang trong quá trình thử nghiệm, phát triển các loạị hóa chất diệt mới để sử dụng cho màn ngủ là một ưu tiên đặc biệt. Phát hiện kháng hóa chất diệt là một thành phần thiết yếu của tất cả các nỗ lực phòng chống sốt rét quốc gia để đảm bảo rằng các biện pháp phòng chống vector hiệu quả nhất đang được sử dụng. Sự lựa chọn thuốc trừ sâu cho IRS nên luôn luôn được thông tin bởi các dữ liệu gần đây của địa phương về tính nhạy cảm của các vectơ mục tiêu.
Để đảm bảo một đáp ứng toàn cầu kịp thời và phối hợp tới các mối đe dọa về kháng hóa chất diệt, WHO đã làm việc với một loạt các bên liên quan để xây dựng "Kế hoạch Toàn cầu cho việc xử lý kháng hóa chất diệt với các vectơ sốt rét" (Global Plan for Insecticide Resistance Management_GPIRM), được phát hành tháng 5 năm 2012 .GPIRM đưa ra một chiến lược năm trụ cột kêu gọi cộng đồng sốt rét toàn cầu: Lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược xử lý kháng hóa chất diệt tại các nước sốt rét lưu hành; đảm bảo giám sát côn trùng và theo dõi kháng thích hợp và kịp thời, và xử lý các dữ liệu hiệu quả; phát triển các công cụ kiểm soát vector mới và sáng tạo; lấp đầy những khoảng trống trong kiến thức về cơ chế kháng hóa chất diệt và tác động của các phương pháp xử lý kháng hóa chất diệt hiện nay; đảm bảo rằng các cơ chế cho phép (vận động cũng như huy động nguồn nhân lực và nguồn tài chính) được đưa ra.
Giám sát (Surveillance)
Theo dõi tiến bộ là một thách thức lớn trong phòng chống bệnh sốt rét,trong năm 2012 hệ thống giám sát bệnh sốt rét chỉ phát hiện được khoảng 14% số lượng ca sốt rét được ước tính trên toàn cầu. Hệ thống giám sát bệnh sốt rét mạnh hơn đang là đòi hỏi khẩn cấp để kích hoạt một đáp ứng sốt rét kịp thời và hiệu quả trong các vùng lưu hành, để ngăn chặn dịch và sự tái diễn bệnh, để theo dõi sự tiến bộ và giúp cho chính phủ và cộng đồng sốt rét toàn cầu có trách nhiệm.
Loại trừ sốt rét (Elimination)
Loại trừ sốt rét được định nghĩa như là sự phá vỡ sự lan truyền bệnh sốt rét do muỗi truyền tại chỗ trong một khu vực địa lý được xác định, tức là không có tỷ lệ mắc mới tại địa phương. Thanh toán sốt rét (Malaria eradication) được định nghĩa là làm giảm vĩnh viễn tới không về tỷ lệ nhiếm sốt rét trên toàn thế giới được gây ra bởi một tác nhân đặc biệt; tức là áp dụng cho một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt. Trên cơ sở các ca bệnh sốt rét được báo cáo trong năm 2013, thì có 55 quốc gia đang trên đà giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét của họ đến 75%, phù hợp với mục tiêu của Đại hội đồng Y tế Thế giới vào năm 2015. Sử dụng các chiến lược được khuyến cáo bởi WHO trên quy mô lớn, và các công cụ có sẵn hiện nay, cam kết mạnh mẽ của các quốc gia, và các nỗ lực phối hợp với các đối tác, sẽ cho phép có nhiều quốc gia hơn - đặc biệt là những nơi sự lan truyền bệnh sốt rét là thấp và không ổn định làm giảm gánh nặng bệnh tật của họ và tiến bộ tiến tới việc loại trừ. Trong những năm gần đây, 4 quốc gia đã được xác nhận bởi Tổng giám đốc WHO là đã loại trừ được sốt rét là: Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (United Arab Emirates_2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010) và Armenia (2011).
Vaccine chống lại bệnh sốt rét (Vaccines against malaria)
Hiện tại không có vaccine chống lại bệnh sốt rét được cấp phép hoặc bất kỳ ký sinh trùng nào khác ở người. Một vaccin nghiên cứu chống lại P. falciparum, được gọi là RTS, S/AS01là tiên tiến nhất. Vaccine này đã được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng lớn tại 7 quốc gia ở châu Phi và đã được đệ trình lên cho Cơ quan y tế châu Âu theo điều 58 để xem xét điều chỉnh. Một khuyến cáo của WHO cho sử dụng sẽ phụ thuộc vào các kết quả cuối cùng từ các thử nghiệm lâm sàng lớn và một xem xét tích cực, khuyến cáo là liệu có hay không vaccine này nên được thêm vào các công cụ phòng chống bệnh sốt rét hiện có dự kiến vào cuối năm 2015.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)
Chương trình sốt rét toàn cầu của WHO (Global Malaria Programme_GMP) có trách nhiệm vạch ra quá trình phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét thông qua thiết lập, truyền thông và thúc đẩy việc thông qua các chỉ tiêu dựa trên bằng chứng, các tiêu chuẩn, các chính sách, các chiến lược kỹ thuật và các hướng dẫn; giữ số điểm độc lập về sự tiến bộ toàn cầu; phát triển các cách tiếp cận để xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống, và giám sát; xác định các mối đe dọa đến phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét cũng như các khu vực mới để hành động. GMP phục vụ như là thư ký cho Ủy Ban tư vấn chính sách sốt rét (Malaria Policy Advisory Committee - MPAC), một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu được chỉ định theo sau một quá trình đề cử mở. MPAC họp hai lần mỗi năm, cung cấp tư vấn độc lập tới WHO nhằm phát triểncác khuyến nghị chính sách cho việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là cung cấp tư vấn chiến lược và đầu vào kỹ thuật, và mở rộng đến tất cả các khía cạnh phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét, như là một phần của một quá trình thiết lập các chính sách minh bạch, đáp ứng và đáng tin cậy. WHO cũng là người đồng sáng lập và là chủ của quan hệ đối tác Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria), đồng thời là bộ khung toàn cầu để thực hiện các hoạt động phối hợp chống lại bệnh sốt rét. Quan hệ đối tác huy động cho hành động và các nguồn lực và tạo nên sự đồng thuận giữa các đối tác. Chương trình đẩy lùi bao gồm hơn 500 đối tác, trong đó có các quốc gia lưu hành bệnh sốt rét, các đối tác phát triển, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dựa vào cộng đồng, các quỹ và các tổ chức nghiên cứu và học thuật.
Theo: Viện Sốt rét ký sinh trùng côn trùng Quy Nhơn
Tin liên quan
- Việt Nam nhất quán thúc đẩy di cư quốc tế hợp pháp, an toàn
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương tri ân các đối tác đã đồng hành trong chặng đường phát triển Bệnh viện
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch mới nhất
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương chào đón công dân nhí đầu tiên năm 2025
- Khánh thành hệ thống tự động hoàn toàn cho phòng xét nghiệm tại Việt Nam
- Xanh - sạch - đẹp ở Bệnh viện Phổi Thanh Hóa
- Trao giải cuộc thi “Cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp” lần thứ nhất năm 2024