Hoạt động Phòng, chống sốt rét tháng 4

24/04/2019 | 09:13 AM

 | 

Ngày sốt rét thế giới 25/4/2014 và thông tin cập nhật về bệnh sốt rét qua dữ liệu của WHO

 

Ngày sốt rét thế giới 25/4/2014 và thông tin cập nhật về bệnh sốt rét qua dữ liệu của WHO

Chủ đề Ngày thế giới phòng chống sốt rét diễn ra hàng năm vào ngày 25/4/2014: “Đầu tư cho tương lai-Đánh bại sốt rét”. Những nỗ lực toàn cầu để phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ước tính đã cứu 3,3 triệu mạng sống kể từ năm 2000, giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét 42% trên toàn cầu và 49% ở châu Phi. Gia tăng cam kết chính trị và tài trợ mở rộng đã giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét 25% trên toàn cầu và 31% ở châu Phi.

Ngày Sốt rét thế giới, ngày 25 tháng 4 năm 2014

Chủ đề Ngày thế giới phòng chống sốt rét diễn ra hàng năm vào ngày 25/4/2014: “Đầu tư cho tương lai-Đánh bại sốt rét”. Những năm qua nhờ sự đầu tư tích cực của các chính phủ, các tổ chức quốc tế và nỗ lực toàn cầu trong phòng chống sốt rét, tình hình sốt rét đã được cải thiện đáng kể, nhiều quốc gia đã chuyển sang giai đoạn chiến lược tiền loại trừ sốt rét, loại trừ sốt rét hoặc phòng chống sốt rét tích cực.

Đầu tư cho tương lai. Đánh bại bệnh sốt rét (Invest in the future. Defeat malaria)

Những nỗ lực toàn cầu để phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ước tính đã cứu 3,3 triệu mạng sống kểtừ năm 2000, giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét 42% trên toàn cầu và 49% ở châu Phi. Gia tăng cam kết chính trị và tài trợ mở rộng đã giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét 25% trên toàn cầu và 31% ở châu Phi.

 

                    WHO/S. Hollyman

 

 

Nhưng chúng ta vẫn chưa đi đến đích cuối cùng, bệnh sốt rét vẫn còn giết chết khoảng 627.000 người mỗi năm, chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi ở vùng cận Saharan châu Phi; trong năm 2013 có 97 quốc gia có sự lan truyền tiếp diễn bệnh sốt rét; mỗi năm có hơn 200 triệu ca sốt rét, hầu hết các ca sốt rét này không bao giờ được xét nghiệm hoặc đăng ký, sự xuất hiện kháng hóa chất diệt và thuốc sốt rét đe dọa đảo ngược thành quả đạt được gần đây. Nếu thế giới duy trì và đẩy nhanh tiến bộ chống bệnh sốt rét, phù hợp với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 6 (MDG6) và để đảm bảo đạt được các mục tiêu MDG 4 và 5 thì ngân quỹ nhiều hơn là đòi hỏi cấp bách. Chủ đề Ngày thế giới phòng chống sốt rét của năm 2014 và 2015 là: Đầu tư cho tương lai. Đánh bại bệnh sốt rét

Mục tiêu: Tạo sức mạnh cam kết để chống lại bệnh sốt rét (energize commitment to fight malaria)

Ngày Sốt rét thế giới được thiết lập bởi các nước thành viên của WHO trong kỳ họp Đại hội đồng Y tế thế giới vào năm 2007, đây là một dịp để làm nổi bật sự cần thiết phải tiếp tục đầu tư và cam kết chính trị bền vững cho công tác phòng chống sốt rét và cũng là một cơ hội đối với các nước trong khu vực bị ảnh hưởng học hỏi kinh nghiệm của nhau và hỗ trợ những nỗ lực của nhau (for countries in affected regions to learn from each other's experiences and support each other's efforts); đối với các nhà tài trợ mới gia nhập vào một quan hệ đối tác toàn cầu chống lại bệnh sốt rét (for new donors to join a global partnership against malaria); đối với các viện học thuật và nghiên cứuđánh dấu tiến bộ khoa học cho cả các chuyên gia và công chúng nói chung (for research and academic institutions to flag scientific advances to both experts and the general public) và đối với các đối tác, các công ty và các quỹ giới thiệu những nỗ lực của họ và suy nghĩ về làm thế nào để tiếp tục mở rộng quy mô can thiệp (for international partners, companies and foundations to showcase their efforts and reflect o­n how to further scale up interventions).

Thông tin cập nhật về bệnh sốt rét qua dữ liệu của WHO

Cập nhật tháng 3/2014. WHO - Theo ước tính mới nhất, phát hành vào tháng 12/2013 có khoảng 207 triệu ca bệnh sốt rét vào năm 2012 (với một giới hạn không chắc chắn từ 135 triệu ca đến 287 triệu ca) và khoảng 627 000 trường hợp tử vong (với một giới hạn không chắc chắn từ473 000 ca đến 789 000 ca). Tỷ lệ tử vong sốt rét đã giảm 42% trên toàn cầu kể từ năm 2000 và 49% ở khu vực châu Phi của WHO. Hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ em sống ở châu Phi, nơi mà cứ mỗi phút co một trẻ em chết do bệnh sốt rét, tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em tại châu Phi đã giảm với một ước tính khoảng 54% kể từ năm 2000. Bệnh sốt rét là do ký sinh trùng Plasmodium lây lan sang người qua vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm, được gọi là "vectơ sốt rét" (malaria vectors) mà thời gian đốt người chủ yếu giữa chạng vạng tối và lúc rạng sáng.

Có bốn loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét ở người: Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale trong đó Plasmodium falciparumPlasmodium vivax là những chủng phổ biến nhất, Plasmodium falciparum là chủng nguy hiểm nhất. Trong những năm gần đây, một số trường hợp người mắc bệnh sốt rét cũng đã xảy ra với Plasmodium knowlesi - một loài gây bệnh sốt rét ở khỉ và xảy ra ở các khu vực rừng núi của Đông Nam Á.

Sự lan truyền (Transmission)

Sốt rét lây truyền chủ yếuthông qua các vết đốt của muỗi Anopheles, cường độ lan truyền phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến ký sinh trùng, các vector, vật chủ người và môi trường. Có khoảng 20 loài Anopheles khác nhau là quan trọng tại chỗ trên thế giới, tất cả các loài vector truyền bệnh chính đều đốt người vào ban đêm. Muỗi Anopheles sinh sản trong nước và mỗi loài có sở thích riêng của mình như một số thích đẻ ở các vùng cạn của nước ngọt, chẳng hạn như vũng nước, cánh đồng lúa, và nơi dấu chân của động vật có móng. Sự lan truyền mạnh hơn ở những nơi mà tuổi thọ muỗi dài hơn (để các ký sinh trùng có thời gian hoàn thành sự phát triển của nó bên trong muỗi) và những nơi mà muỗithích đốt máu người chứ không phải là loài động vật khác, ví dụ tuổi thọ dài hơn và tập tính đốt người của các loài vector ở châu Phi là lý do chính tại sao khoảng 90% số ca tử vong sốt rét trên thế giới là ở châu Phi.

 

 

 

    Muỗi Anopheles làm lan truyền bệnh sốt rét

 

Sự lan truyềncũng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu có thể ảnh hưởng đến số lượng và sự tồn tại của muỗi, chẳng hạn như lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm. Ở nhiều nơi, sự lan truyền theo mùa với đỉnh cao trong và ngay sau mùa mưa. Dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra khi điều kiện khí hậu và các điều kiện khác đột nhiên có lợi cho sự lan truyền trong khu vực, nơi mọi người có ít hoặc không có miễn dịch đối với bệnh sốt rét; dịch bệnh sốt rét cũng có thể xảy ra khi những người có miễn dịch thấp di chuyển vào các khu vực có lây truyền bệnh sốt rét với cường độ cao, ví dụ để tìm kiếm việc làm hoặc là người tị nạn. Khả năng miễn dịch của con người là một yếu tố quan trọng, đặc biệt là ở người trưởng thành trong vùng có điều kiện lan truyền trung bình hoặc nặng. Miễn dịch phần bộ (partial immunity) được phát triển trong những năm phơi nhiễm (exposure) và trong khi nó không bao giờ cung cấp sự bảo vệ đầy đủ và làm giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh sốt rét sẽ làm cho bệnh nặng hơn. Vì lý do này, hầu hết các trường hợp tử vong do sốt rét ở châu Phi xảy ra ở trẻ em, trong khi ở khu vực có sự lan truyền ít và miễn dịch thấp thì tất cả các nhóm tuổi đềucó nguy cơ.

Các triệu chứng (Symptoms)

Sốt rét là một căn bệnh gây sốt cấp tính. Ở một cá nhân không có miễn dịch, các triệu chứng xuất hiện trong vòng 7 ngày hoặc dài hơn (thường là 10-15 ngày) sau khi muỗi bị nhiễm bệnh đốt người. Các triệu chứng đầu tiên là sốt, đau đầu, ớn lạnh và ói mửa có thể là nhẹ và khó khăn để ghi nhậnnhư bệnh sốt rét. Nếu không được điều trị trong vòng 24 giờ, sốt rét P.falciparum có thể tiến triển thành bệnh nặng và thường dẫn đến tử vong. Trẻ em bị sốt rét nặng thường phát triển một hoặc nhiều triệu chứng sau đây: thiếu máu nặng (severe anaemia), suy hô hấp liên quan đến nhiễm toan chuyển hóa (respiratory distress in relation to metabolic acidosis) hoặc sốt rét thể não (cerebral malaria). Ở người lớn, sự liên quan đến nhiều cơ quan cũng thường xuyên, trong vùng dịch tễ lưu hành sốt rét, người có thể phát triển miễn dịch phần bộ cho phép nhiễm bệnh mà không có triệu chứng xảy ra. Với cả P.vivaxP.ovale, tỷ lệ tái phát bệnh có thể xảy ra trong vài tuần đến vài tháng sau khi nhiễm bệnh lần đầu tiên, ngay cả khi bệnh nhân đã rời khỏi khu vực dịch tễ sốt rét. Những đợt kịch phát mới phát sinh từ các thể ẩn ở ganđược gọi là hypnozoites (không có ở P.falciparumP.malariae), điều trị đặc biệt nhằm vào các giai đoạn gan này là cần thiết cho việc chữa khỏi hoàn toàn.

Ai là đối tượng nguy cơ ? (Who is at risk?)

Khoảng một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, hầu hết các trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong xảy ra ở vụng cận Saharan châu Phi; tuy nhiên ở châu Á, Mỹ Latinh và ở một mức độ thấp hơn ở vùng Trung Đông và nhiều phần của Châu Âu cũng bị ảnh hưởng. Trong năm 2013, 97 quốc gia và vùng lãnh thổ có sự lan truyền bệnh sốt rét đang diễn ra.

Nhóm quần thể có nguy cơ đặc biệt bao gồm trẻ em trong khu vực có sự lan truyền ổn định nhưng chưa được phát triển miễn dịch bảo vệ chống lại các thể bệnh trầm trọng nhất (young children in stable transmission areas who have not yet developed protective immunity against the most severe forms of the disease); phụ nữ mang thai không có miễn dịch khi bị bệnh sốt rét gây ra tỷ lệ sẩy thai cao và có thể dẫn đến tử vong mẹ (non-immune pregnant women as malaria causes high rates of miscarriage and can lead to maternal death); phụ nữ mang thai bán miễn dịch ở các nơi có sự lan truyền cao. Bệnh sốt rét có thể dẫn đến sẩy thai và trọng lượng trẻ sơ sinh thấp , đặc biệt là trong thời gian mang thai đầu tiên và lần thứ hai (semi-immune pregnant women in areas of high transmission. Malaria can result in miscarriage and low birth weight, especially during first and second pregnancies); phụ nữ mang thai bán miễn dịch nhiễm HIV trong các khu vực lan truyền ổn định, trong tất cả lần mang thai, phụ nữ bị nhiễm bệnh sốt rét qua nhau thai cũng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV qua trẻ sơ sinh (semi-immune HIV-infected pregnant women in stable transmission areas, during all pregnancies, women with malaria infection of the placenta also have a higher risk of passing HIV infection to their newborns); người nhiễm HIV/AIDS (people with HIV/AIDS); các du khách quốc tế từ các khu vực không lưu hành vì họ thiếu khả năng miễn dịch (international travellers from non-endemic areas because they lack immunity); người nhập cư từ các khu vực lưu hành và con cái của họ sống ở các vùng không lưu hành trở về quê hương đất nước của họ để thăm bạn bè và người thân có nguy cơ tương tự vì hết hoặc không có miễn dịch (immigrants from endemic areas and their children living in non-endemic areas and returning to their home countries to visit friends and relatives are similarly at risk because of waning or absent immunity).

Chẩn đoán và điều trị (Diagnosis and treatment)

Chẩn đoán và điều trị sớm sốt rét làm giảm bệnh và ngăn ngừa tử vong, nó cũng góp phần làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét. Việc điều trị tốt nhất hiện có, đặc biệt đối với P.falciparum là liệu pháp kết hợp artemisinin (ACT). WHO khuyến cáo rằng tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét cần được xác nhận bằng cách sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán dựa trên ký sinh trùng (hoặc kính hiển vi hoặc test chẩn đoán nhanh) trước khi hành điều tr, kết quả xác nhận ký sinh trùng có thể có sẵn trong vòng 15 phút hoặc ít hơn. Điều trị dựa trên các triệu chứng chỉ nên được xem xét khi chẩn đoán ký sinh trùng là không thể. Khuyến cáo chi tiết hơn có sẵn trong Hướng dẫn điều trị sốt rét (ấn bản lần thứ hai).

Kháng thuốc sốt rét (Antimalarial drug resistance)

Đề kháng với các loại thuốc chống sốt rét là một vấn đề luôn diễn ra, sự đề kháng của P.falciparum với các loại thuốc sốt rét thế hệ trước, chẳng hạn như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine (SP) trở nên phổ biến trong những năm 1970s và 1980s phá hoại nỗ lực phòng chống bệnh sốt rét và làm đảo đạt được về sự sống còn của trẻ em. Trong những năm gần đây, sự đề kháng của ký sinh trùng tới artemisinin đã được phát hiện trong 4 quốc gia tiểu vùng sông Mekong: Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Trong khi có khả năng nhiều yếu tố góp phần vào sự xuất hiện và lây lan của tình trạng kháng thuốc thì việc sử dụng artemisinin đơn trị liệu bằng đường uống được cho là một động lực quan trọng. Khi điều trị đơn trị liệu artemisinin bằng đường uống, bệnh nhân có thể ngừng điều trị sớm sau sự biến mất nhanh chóng của các triệu chứng bệnh sốt rét dẫn đến điều trị không đầy đủ và những bệnh nhân này vẫn có ký sinh trùng dai dẳng trong máu. Nếu không có một loại thuốc thứ hai được đưa ra như là một phần của một sự kết hợp (như được cung cấp với một ACT) thì các ký sinh trùng kháng thuốc này vẫn tồn tại và có thể được lan qua một con muỗi và sau đó đến một người khác; nếu kháng artemisinin phát triển và lây lan đến các khu vực địa lý lớn khác thì hậu quả y tế công cộng có thể là nghiêm trọngbởi vì không có loại thuốc chống sốt rét thay thế sẽ có ít nhất là 5 năm.

WHO khuyến cáo giám sát thường xuyên tình trạng kháng thuốc chống sốt rét và hỗ trợ các nước tăng cường nỗ lực của họ trong lĩnh vực nghiên cứu quan trọng này. Các khuyến cáo toàn diện hơn có sẵn trong kế hoạch toàn cầu của WHO về ngăn chặn đề khángArtemisinin (Global Plan for Artemisinin Resistance Containment_GPARC) được phát hành vào năm 2011.

Dự phòng (Prevention)

Phòng chống vector là cách chính để giảm sự lây truyền bệnh sốt rét ở cấp cộng đồng đó là sự can thiệp duy nhất có thể làm giảm lây truyền bệnh sốt rét từ mức rất cao đến gần bằngkhông, đối với cá nhân, bảo vệ cá nhân chống lại muỗi đốt đại diện cho hệ thống bảo vệ đầu tiên trong dự phòng bệnh sốt rét. Có hai hình thức phòng chốngvector có hiệu quả trong một loạt các tình huống.

Màn tẩm hóa chất (Insecticide-treated mosquito nets -ITNs)

Màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu dài (Long-lasting insecticidal nets_LLINs) là hình thức ưa thích của màn tẩm hóa chất trong các chương trình phân phối y tế công cộng, WHO khuyến cáo bao phủ cho tất cả những người có nguy cơ cao và hầu hết các nơi có sốt rét lưu hành. Cách chi phí hiệu quả nhất để đạt được điều này là thông qua việc cung cấp LLINs miễn phí để tất cả mọi người ngủ dưới một LLIN hàng đêm.

Phun hóa chất tồn lưu trong nhà (Indoor spraying with residual insecticides)

Phunhóa chất tồn lưu trong nhà (Indoor residual spraying_IRS) là một cách mạnh mẽ để nhanh chóng làm giảm lây truyền bệnh sốt rét. Tiềm năng đầy đủ của việc phun hóa chất trong nhà có được khi có ít nhất 80% số nhà ở tại các vùng đích được phun, phun trong nhà có hiệu quả trong vòng3-6 tháng tùy thuộc vào thuốc trừ sâu được sử dụng và loại bề mặt nhà mà nó được phun. DDT có thể có hiệu lực trong 9-12 tháng trong một số trường hợp, các loại thuốc trừ sâu IRS hiện có tồn lưu lâu dài cũng như các lớp thuốc trừ sâu mới sử dụng trong các chương trình IRS đang được phát triển.

Hóa dự phòng sốt rét (malaria chemoprevention)

Các thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để phòng ngừa bệnh sốt rét, đối với du khách, sốt rét có thể được phòng ngừa thông qua điều trị dự phòng, các thuốc này giúp ngăn cản giai đoạn nhiễm bệnh sốt rét ở trong máu, do đó ngăn ngừa bệnh sốt rét. Ngoài ra, WHO khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine cho phụ nữ mang thai sống ở các vùng có sự lan truyền cao mỗi khi đi khám định kỳ trước sinh ​​sau ba tháng đầu. Tương tự như vậy, đối với trẻ sơ sinh sống trong khu vực có sự lan truyền cao ở châu Phi, 3 liều điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine được khuyến cáo cho dùng cùng với tiêm chủng định kỳ. Năm 2012, WHO khuyến cáo sử dụng hóa dự phòng sốt rét theo mùa (seasonal malaria chemoprevention) như một chiến lược phòng chống sốt rét bổ sung cho tiểu khu vực Sahel của châu Phi liên quan đến việc sử dụng liệu trình hàng tháng của amodiaquine cộng với sulfadoxine-pyrimethamine cho tất cả các trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa lan truyền cao.

Kháng hóa chất diệt (Insecticide resistance)

Phần lớn sự thành công cho đến nay trong việc phòng chống bệnh sốt rét là do phòng chống vector. Phòng chống vector phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng các pyrethroid, đó là lớp thuốc trừ sâu duy nhất hiện đang được khuyến cáo dùng cho ITN hoặc LLINs. Trong những năm gần đây, sự đề kháng của muỗi đến pyrethroids đã xuất hiện ở nhiều nước, ở một số vùng sự đề kháng tới tất cả 4 lớp thuốc trừ sâu được sử dụng cho y tế công cộng đã được phát hiện. May mắn thay, sự đề kháng này hiếm khi được kết hợp với hiệu quả giảm sút và LLINs và IRS vẫn còn là các công cụ có hiệu quả cao ở hầu hết các nơi. Tuy nhiên, các nước trong tiểu vùng Saharan châu Phi và Ấn Độ là mối quan tâm đáng kể, các quốc gia này đặc trưng bởi mức độ lan truyền bệnh sốt rét cao và các báo cáo kháng thuốc trừ sâu lan rộng. Việc phát triển các thuốc trừ sâu thay thế mới là một ưu tiên cao và một số sản phẩm hứa hẹn đang trong quá trình nghiên cứu, phát triển các loại thuốc trừ sâu mới để sử dụng trên màn ngủ là một ưu tiên đặc biệt.

Phát hiện kháng thuốc trừ sâu phải là một thành phần thiết yếu của tất cả các nỗ lực phòng chống sốt rét quốc gia để đảm bảo rằng các phương pháp phòng chống vector hiệu quả nhất đang được sử dụng. Sự lựa chọn thuốc trừ sâu cho IRS nên luôn luôn được thông báo bằng các dữ liệu địa phương gần đây trên các quần thể đích còn nhạy cảm. Để đảm bảo có một đáp ứng toàn cầu kịp thời và phối hợp tới các mối đe dọa kháng thuốc trừ sâu, WHO đã làm việc với một loạt các bên liên quan nhằm phát triển Kế hoạch toàn cầu cho việc xử lý kháng hóa chất diệt trong các vec tơ sốt rét (Global Plan for Insecticide Resistance Management_GPIRM) được phát hành vào tháng 5/2012. GPIRM đặt ra một chiến lược 5 trụ cột kêu gọi cộng đồng sốt rét toàn cầu xây dựng kế hoạch và thực hiện các chiến lược xử lý sự đề khángvới hóa chất diệt trong các nước lưu hành sốt rét (plan and implement insecticide resistance management strategies in malaria-endemic countries); đảm bảo giám sát côn trùng và sự đề kháng,thích hợp và kịp thời và xử lý dữ liệu hiệu quả (ensure proper and timely entomological and resistance monitoring, and effective data management); phát triển các công cụ phòng chống vector mới và sáng tạo (develop new and innovative vector control tools); lấp những khoảng trống trong kiến thức về cơ chế kháng hóa chất diệt và tác động của phương pháp tiếp xử lý sự đề kháng với các hóa chất diệt hiện tại (fill gaps in knowledge o­n mechanisms of insecticide resistance and the impact of current insecticide resistance management approaches) và đảm bảo rằng các cơ chế cho phép (vận động cũng như nguồn nhân lực và tài chính) được đưa ra (ensure that enabling mechanisms (advocacy as well as human and financial resources) are in place).

Giám sát (Surveillance)

Theo dõi tiến bộ là một thách thức lớn trong phòng chống bệnh sốt rét, hệ thống giám sát bệnh sốt rét phát hiện chỉ có khoảng 14% số lượng ca sốt rét trên toàn cầu, hệ thống giám sát bệnh sốt rét mạnh hơn đang rất cần để cho phép một đáp ứng sốt rét kịp thời và hiệu quả tại các khu vực lưu hành, để ngăn chặn dịch và sự tái diễn, để theo dõi tiến bộ và giúp các chính phủ vàcộng đồng sốt rét toàn cầu có trách nhiệm. Vào tháng 4/2012, Tổng giám đốc WHO đưa ra hướng dẫn sử dụng giám sát toàn cầu mới trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét và kêu gọi các nước lưu hành sốt rét tăng cường hệ thống giám sát của họ đối vớibệnh sốt rét. Điều này đã được đưa vào trong một cuộc kêu gọi lớn hơn nhằm mở rộng xét nghiệm chẩn đoán, điều trị và giám sát bệnh sốt rét, được gọi là T3 của WHO: Xét nghiệm (Test)-Điều trị (Treatment)-Theo dõi chủ động (Track initiative).

Loại trừ sốt rét (Elimination)

Loạitrừbệnh sốt rét(Malaria elimination) đượcđịnhnghĩa khi làm giám đoạn sự lan truyền sốt rét tại chỗ do muỗi ở trong một khu vực địa lý được xác định, tức là tỷ lệ cácca mắc mới sốt rét tại chỗ bằng không.Tiêu diệt bệnh sốt rét (Malaria eradication) được định nghĩa khi sự giảm số ca mắc mới vĩnh viễn (permanent) trên thế giới tới không bởi một tác nhân đặc biệt, ví dụ ápdụng đến một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt.Trên cơ sở các ca bệnh được báo cáo vào năm 2012, có 52 quốc gia đang trên đà giảm tỷ lệ mắc mới sốt rét khoảng 75%, phù hợp với mục tiêu của Đại hội đồng Y tế Thế giới(World Health Assembly) vào năm 2015. Sử dụng các chiến lược được khuyến nghị bởi WHO trên diện rộng, các công cụ sẵn có hiện nay, các cam kết quốc gia mạnh mẽ và các nỗ lực phối hợp của các đối tác thì sẽ có nhiều quốc gia hơn có khả năng làm giảm sự bùng phát bệnh tật tiến tới việc loại trừ sốt rét, đặc biệt ở các quốc gia có sự lan truyền sốt rét thấp và không ổn định-để giảm gánh nặng bệnh tật ở đất nước họ và tiến bộ hướng đến loại trừ sốt rét.

Trong những năm gần đây, 4 quốc gia đã được chứng nhận bởi Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới là các quốc gia đã loại trừ được bệnh sốt rét: Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (United Arab Emirates-2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010) và Armenia (2011).

Vắc-xin chống bệnh sốt rét (Vaccines against malaria)

Hiện tại không có vaccin được cấp phép chống lại bệnh sốt rét hay bất kỳ ký sinh trùng sốt rét ở người. Một nghiên cứu vắc-xin chống lạiP.falciparumđược gọi là RTS,S/AS01 là tiên tiến nhất. Vaccin này hiện đang được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng trên diện rộng tại 7 quốc gia châu Phi. Một khuyến nghị của WHO cho việc sử dụng vaccin này tuỳ thuộc vào các kết quả cuối cùng từ các thử nghiệm lâm sàng trên diện rộng. Các kết quả cuối cùng được dự kiến ​​vào cuối năm 2014 và một khuyến nghị có sử dụng vaccin này hay không như là một công cụ bổ sung trong phòng chống sốt rét được dự kiến ​​vào cuối năm 2015.

Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)

Chương trình sốt rét toàn cầu (Global Malaria Programm_GMP) của WHO chịu trách nhiệm về việc thiết lập khoá học về phòng chống và loại trừ sốt rét thông qua thiết lập, truyền thông và thúc đẩy sự chấp thuận các chính sách quy chuẩn dựa vào chứng cứ, chiến lược kỹ thuật và các hướng dẫn (setting, communicating and promoting the adoption of evidence-based norms, standards, policies, technical strategies, and guidelines); giữ tính độc lập về thang điểm trong các tiến bộ toàn cầu (keeping independent score of global progress); phát triển cách tiếp cận xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống và giám sát (developing approaches for capacity building, systems strengthening, and surveillance); xác định các mối đe dọa trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét cũng như các lĩnh vực mới để hành động (identifying threats to malaria control and elimination as well as new areas for action).GMP hoạt động như là Ban thư ký cho Ủy ban tư vấn chính sách sốt rét (Malaria Policy Advisory Committee_MPAC) là một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu được chỉ định theo sau một quá trình đề cử mở. MPAC họp hai lần một năm cung cấp sự tư vấn độc lập đến Tổ chức y tế thế giới nhằm phát triển các khuyến nghị chính sách cho việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là cung cấp tư vấn chiến lược và đầu vào kỹ thuật và mở rộng đến các khía cạnh trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét như một phần của một quá trình thiết lập chính sách đáp ứng đáng tin cậy và minh bạch.

WHO cũng là một đối tác thành lập (co-founder) và là chủ đối tác Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria), đồng thời là bộ khung thực hiện các hoạt động điều phối chống sốt rét. WHO huy động hành động, các nguồn lực và sự đồng thuận trong các đối tác. Chương trình đẩy lùi sốt rét có hơn 500 đối tác bao gồm các quốc gia lưu hành sốt rét (malaria endemic countries), các đối tác phát triển (development partners), các khu vực tư nhân (private sector), các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dựa vào cộng đồng (nongovernmental and community-based organizations), các quỹ tài trợ (foundations), các viện nghiên cứu và học thuật (research and academic institutions).

Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 tại nước ta không thể bị lãng quên

Trước đây, ngày 25 tháng 4 năm 2000 được các nhà lãnh đạo của 44 nước châu Phi chọn làm Ngày Sốt rét châu Phi (Africa malaria day) và đưa ra những cam kết chính trị mạnh mẽ ủng hộ chuộc chiến đấu chống lại bệnh sốt rét đang hoành hành làm ảnh hưởng đến tính mạng cùng như sức khỏe của cộng đồng người dân tại nơi đây.

Phát huy tác dụng hiệu quả này, năm 2008 là năm đầu tiên Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chọn ngày 25 tháng 4 làm Ngày thế giới phòng chống sốt rét (World malaria day) để tất cả các quốc gia trên toàn cầu kể cả nước ta đồng loạt tổ chức các hoạt động truyền thông giáo dục, triển khai biện pháp phòng chống bệnh.

Theo thông báo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngày 25 tháng 4 năm 2008 là năm đầu tiên Việt Nam cùng với tất cả các nước trên toàn cầu bắt đầu tổ chức phát động Ngày thế giới phòng chống sốt rét. Ở nước ta, hầu hết các địa phương trên cả nước đều tổ chức sự kiện này và định kỳ hàng năm Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 cũng được triển khai thực hiện các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe và phát động biện pháp phòng chống cần thiết. Mỗi năm Tổ chức Y tế Thế giới đề xuất một thông điệp hay chủ đề riêng. Những năm đầu tiên từ 2008 đến 2010, chương trình hành động với những thông điệp khuyến cáo kêu gọi cộng đồng người dân trên toàn thế giới hưởng ứng và tham gia công tác phòng chống sốt rét để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe toàn cầu. Năm 2011 có chủ đề “phòng chống sốt rét đang đạt được thành tựu và hiệu quả” (Achieving progress and impact). Năm 2012 có chủ đề “giữ vững thành quả, cứu lấy mạng sống, đầu tư cho sốt rét” (Sustain gains. Save live. Invest in malaria). Năm 2013 và những năm sau đó với chủ đề “đầu tư vào tương lai, hạ gục sốt rét” (Invest in the future. defeat malaria). Như vậy tại nước ta, Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 hàng năm được tổ chức phát động từ năm 2008 đến năm 2013 ở tất cả các địa phương trên cả nước cùng với những quốc gia có bệnh sốt rét lưu hành trên toàn thế giới.

Lễ phát động Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 (ảnh internet minh họa)

 

Mặc dù hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe năm 2014 được xác định là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với các cơ sở y tế, nhất là các đơn vị y tế dự phòng và được Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể trong văn bản số 1018/BYT-TT-KT ngày 10 tháng 3 năm 2014 lại không đề cập đến chủ đề và thời điểm tập trung truyền thông giáo dục sức khỏe đối với Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 như những năm trước đây. Chủ đề và thời điểm tập trung truyền thông giáo dục sức khỏe năm 2014 theo văn bản Bộ Y tế ban hành chỉ hướng dẫn 33 nội dung gồm: tháng hành động về chất lượng an toàn thực phẩm (15/1-15/2); ngày thầy thuốc Việt Nam (27/2); tuần lễ an toàn vệ sinh lao động (15-21/3); ngày quốc tế hạnh phúc (20/3); ngày nước sạch thế giới (22/3); ngày thế giới phòng chống lao (24/3); ngày sức khỏe thế giới (07/4); ngày hiến máu nhân đạo (07/4); ngày hen toàn cầu (tuần 1 tháng 5); tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường (12-17/5); ngày thế giới phòng chống thuốc lá (31/5); ngày vi chất dinh dưỡng (01-02/6); ngày môi trường thế giới (05/6); ngày tôn vinh người hiến máu (14/6); ngày toàn dân phòng chống ma túy (26/6); ngày gia đình Việt Nam (28/6); ngày bảo hiểm y tế Việt Nam (01/7); ngày vệ sinh yêu nước-nâng cao sức khỏe nhân dân (02/7); ngày dân số thế giới (11/7); ngày thương binh liệt sĩ (27/7); tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ (01-07/8); ngày vì nạn nhân chất độc da cam (10/8); ngày phòng ngừa tự tử (10/9); ngày tim mạch thế giới (27/9);ngày quốc tế người cao tuổi (01/10); ngày sức khỏe tâm thần thế giới (10/10); ngày thị giác thế giới (10/10); ngày lương thực tế giới (16/10); ngày vì người nghèo (17/10); ngày toàn dân mua và sử dụng muối i ốt (01/11); ngày thế giới phòng chống đái tháo đường (14/11); ngày thế giới phòng chống AIDS và tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS (01/12); ngày dân số Việt Nam và tháng hành động quốc gia dân số (26/12). Như vậy trong sự kiện hoạt động tháng 4/2014 không có chủ đề nội dung phát động Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 như những năm trước, sau thời gian 6 năm các địa phương trên toàn cả nước định kỳ tổ chức đồng loạt sự kiện mang tính xã hội ý nghĩa này. Mặc dù Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25/4/2014 được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra chủ đề tiếp tục “đầu tư cho tương lai, đánh bại sốt rét” (Invest in the future. Defeat malaria) nhưng trong văn bản hướng dẫn 1018/BYT-TT-KT ngày 10/3/2014 của Bộ Y tế không thấy chủ đề này.

Truyền thông giáo dục sức khỏe trong Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25/4 (ảnh internet minh họa)

 

Mặc dù thời điểm hiện nay công tác phòng chống sốt rét tại nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể và đang chuyển chiến lược từ phòng chống sốt rét sang chiến lược loại trừ sốt rét nhưng những yếu tố nguy cơ đang còn tiềm ẩn, sốt rét có thể quay trở lại bất cứ lúc nào, bất kỳ ở đâu trên lãnh thổ nếu chúng ta không cảnh giác, mang tính chủ quan, lơ là, cắt giảm nguồn lực, không đầu tư tiếp tục để xây dựng các điều kiện bền vững nhằm duy trì thành quả lâu dài. Đừng để bệnh sốt rét trở thành một bệnh bị lãng quên tại nước ta như một số bệnh khác khi Ngày thế giới phòng chống sốt rét 25 tháng 4 năm 2014 và trong những năm đến không còn được đưa vào chủ đề và thời gian tập trung tuyền thông giáo dục sức khỏe theo yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Phòng chống sốt rét còn một chặng đường dài để tiến về phía trước

 Ngày 9/4/2015. Malaria News - Ngày Sốt rét thế giới 2015: Tình hình sốt rét đã có những cải thiện đáng kể nhưng phải mất một chặng đường dài để tiến về phía trước (World Malaria Day 2015: Huge improvements, but a long way ahead).

Tại sao điều quan trọng là phải chú ý nhiều hơn đến bệnh sốt rét và thúc đẩy tiến bộ(Why it is important to to pay more attention to malaria and to enhance the progress)

Sốt rét là một trong những bệnh nghiêm trọng nhất của thế giới và mỗi năm giết chết hàng triệu người. Tuy nhiên, trái ngược với các bệnh khác, bệnh sốt rét có thể phòng ngừa được và bị đánh bại. Đây là một tin vui nhưng theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sốt rét vẫn còn giết chết 584.000 người trong năm 2013, những con số tử vong cao nhất do sốt rét xảy ra ở khu vực cận Saharan của châu Phi, chiếm 90% các trường hợp, khoảng 40% các ca tử vong do sốt rét xảy ra chỉ riêng ở Nigeria và Cộng hòa Dân chủ Congo theo báo cáo của WHO. Đặc biệt, trẻ em và phụ nữ mang thai có nguy cơ cao. Theo WHO, 78% các ca tử vong do sốt rét xảy ra với trẻ em dưới 5 tuổi, làm cho trẻ em là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Ngoài ra, phụ nữ mang thai dễ bị tổn thương vì một phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh sốt rét có thể truyền bệnh cho thai nhi của mình.

 

 

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) thì phụ nữ mang thai và trẻ em nhỏ có rất ít khả năng miễn dịch với sốt rét và do đó, họ có thể chết một cách nhanh chóng nếu sốt rét lây truyền cho họ. Báo cáo của WHO cho biết trên quy mô toàn cầu, trong năm 2014 sự lan truyền bệnh sốt rét xảy ra ở 97 quốc gia và xa hơn thế nữa ở châu Phi, những trường hợp mắc sốt rét này cũng xảy ra ở Ấn Độ, Myanmar, Sudan, Campuchia và Papua New Guinea. Mọi người đều có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Cách nhiễm bệnh sốt rét phổ biến nhất là do vết cắn của một con muỗi bị nhiễm bởi một loại ký sinh trùng. Những ảnh hưởng trên con người thường là sốt cao, ớn lạnh và triệu chứng bệnh giống cúm. Tuy nhiên, điều trị bằng thuốc, màn chống muỗi và phun thuốc trừ sâu có thể ngăn ngừa bệnh sốt rét do đó hành động nhanh chóng và chăm sóc y tế dự phòng có thể giải quyết vấn đề này.

 

 

Theo báo cáo của WHO: tỷ lệ chết do sốt rét đã giảm 47% trên toàn thế giới và nhờ đến sự can thiệp mà khoảng 4,2 triệu người đã được cứu sống kể từ năm 2001 đến năm 2013. Ngày thế giới phòng chống bệnh sốt rét năm 2015 diễn ra vào ngày 25 tháng 4 và các bên liên quan khác nhau, các nhóm, các tổ chức quốc tế sẽ tham gia vào các hành động để đánh bại căn bệnh này. Tiến bộ đã đạt được, tuy nhiên, vẫn còn quá nhiều người đang chết do chăm sóc không đầy đủ. Tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe chưa đủ cao ở nhiều quốc gia có bệnh sốt rét lưu hành Theo đó, các tiêu chuẩn sức khỏe không đủ đang cản trở sự phát triển và phải được cải thiện để phá vỡ vòng luẩn quẩn này.

 

 

 

Tổng hợp một số biện pháp hiệu quả đã và đang áp dụng trong phòng chống & loai trừ sốt rét

Hành động khẩn cấp là cần thiết để đạt được đáp ứng toàn cầu với sốt rét quay trở lại tại các quốc gia đang phải chịu ảnh hưởng bởi sốt rét. Vào Ngày Sốt rét Thế giới năm 2019 (World Malaria Day 2019), Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) phối hợp với đối tác Tổ chức đẩy lùi sốt rét (RBM Partnership), Ủy ban Liên minh các quốc gia châu Phi (the African Union Commission) và các tổ chức đối tác khác đang thúc đẩy theo chiến dịch mang tính dân dã, mang tính cộng đồng và rất cơ bản tạm dịch là “Không còn sốt rét bắt đầu từ tôi” (“Zero malaria starts with me”) nhằm đưa sốt rét vào lịch trình chính trị, vận động thêm các nguồn lực, cộng đồng tham gia vào phòng chống và chăm sóc sốt rét nhằm.

Ngày Sốt rét thế giới năm 2019 (World Malaria Day 2019) vào ngày 25/4 là một sự kiện hàng năm với các nổ lực toàn thế giới, tăng thêm kiến thức về sốt rét và đầu tư ngân sách cho phòng bệnh và điều trị. Ngày đó đã đánh dấu mốc về các cam kết chính trị tốt hơn vào phòng chống và loại trừ sốt rét. Ngày này cũng đánh dấu các thành quả tiếp tục đạt được trong cuộc chiến đang chống lại sốt rét. Chủ đề năm 2019 cũng là ‘End Malaria for Good’ và ngày này được TCYTTG chủ trì.


Hình 1

Trong gần 10 năm qua, các quốc gia và các tổ chức quốc tế và tổ chức Phi chính phủ đã đầu tư một khoảng kinh phí rất lớn vào các biện pháp phòng chống tích cực nhằm hướng đến loại trừ sốt rét (PC


Hình 2

Ngoài ra, các nhà chính sách chỉ ra tăng cường đầu tư vào phát triển và nghiên cứu bệnh SR là chìa khóa để đạt được các mục tiêu quan trọng, kể cả nghiên cứu và phát triển các loại vaccine.

1. Kiểm soát vector sốt rét thông qua màn tẩm hóa chất (LLINS) và phun tồn lưu trong nhà (IRS)

Giai đoạn từ năm 2015-2017, tổng cộng có 624 triệu màn tẩm hóa chất diệt muỗi (insecticide-treated mosquito nets - ITNs), chủ yếu là màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu (long-lasting insecticidal nets - LLINs) đã được phân phối trên toàn cầu. Ước tính khoảng 552 triệu màn ITNs được phân phối bởi các chương trình PCSR quốc gia và phần lớn được phân phối ở châu Phi với diện bao phủ màn gần như 100%. Ngoài ra, một số võng và bọc võng được tẩm hóa chất và hoát chất thoa cũng được phát đến các nhóm dân có nguy cơ mắc SR tại nhiều vùng do các dự án cung cấp.

Độ bao phủ màn và ngủ màn trong cộng đồng đã được cải thiện đáng kể ở các hộ gia đình có ít nhất 1 màn ITN cho mỗi 2 người tăng lên. Đồng thời, ngày càng ít người có nguy cơ được bảo vệ bằng cách phun hóa chất tồn lưu trong nhà (indoor residual spraying-IRS), một biện pháp phòng chống vector có liên quan đến việc phun tồn lưu IRS lên các tường nhà.


Hình 3

2. Xét nghiệm chẩn đoán bằng lam máu và test chẩn đoán nhanh

Tiếp cận chăm sóc toàn diện ca bệnh sốt rét tại các cơ sở y tế là cần thiết. Trong đó, chẩn đoán và điều trị kịp thời là hiệu quả nhất để ngăn ngừa bệnh không phát triển thành bệnh thể nặng (SRN/SRAT) và tử vong có liên quan đến sốt rét, điều này thực hiện kể cả ở hệ thống y tế công và y tế tư nhân với các nhân viên y tế cộng đồng trong mối phối hợp công tư (PPP-Public private partnership) đã từng thành công ở một số vùng SRLH.

Việc tiếp cận kém với dịch vụ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc thiếu nhận thức về các triệu chứng SR ở những cơ sở chăm sóc y tế là một trong những yếu tố góp phần diễn tiến bệnh nặng hơn. Do đó, việc truyền tải thông tin để làm sao cho người dân đầy đủ tiếp cận các dịch vụ y tế là cần thiết, khi đó các ca nghi ngờ SR sẽ được áp dụng 2 công cụ chẩn đoán quan trọng (lam máu nhuộm giêm sa và test nhanh) để phát hiện và điều trị kịp thời.


Hình 4

Hầu hết vùng có bệnh SRLH ở các khu vực trên thế giới hiện nay đã được bao phủ test chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic tests-RDTs) với ưu thế chẩn đoán đặc hiệu cho hai loài P. falciparumP. vivax chiếm cao trong cơ cấu ký sinh trùng tại Tây Thái Bình Dương và Nam Mỹ, hay loại test phát hiện cả 4 loài Plasmodium spp. lưu hành tại châu Phi. Tất cả RDTs được phân phối bởi Chương trình PCSR quốc gia và áp dụng cho tất cả các ca bệnh nghi ngờ SR tại cơ sở y tế và cộng đồng. Hiệu quả của RDTs đã giúp phát hiện nhiều ca bệnh hơn trong cộng đồng, điều trị tiệt căn và sau đó số ca giảm đi đáng kể nhờ khâu điều trị toàn diện, nhất là các vùng xa cơ sở y tế và khó tiếp cận các điểm kính hiển vi.

3. Điều trị thuốc phối hợp có thành phần artemisinin (ACTs-Artemisinine-based combination Therapies)

Hiện tại có ít nhất 5 loại thuốc phối hợp có thành phần artemisinin (Artemisinin-based Combination Therapies-ACTs) được sử dụng tại hầu hết các quốc gia có sốt rét lưu hành với hiệu quả chữa khỏi cao trên 95%, ngoại trừ một số vùng của Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam có biểu hiện giảm nhạy và kháng thuốc, song tại các quốc gia châu Phi thì chủng P. falciparum vẫn còn nhạy với các thuốc này. Việc tăng cường xét nghiệm chẩn đoán gần đây, liệu trình điều trị ACTs đang ngày càng hướng đến những ca có xét nghiệm dương tính.


Hình 5

4. Điều trị và phòng bệnh cho phụ nữ mang thai trong vùng SRLH

Để bảo vệ các phụ nữ trong các khu vực có sự lan truyền vừa và cao ở châu Phi, TCYTTG khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng trong thai kỳ (intermittent preventive treatment in pregnancy-IPTp) với thuốc sulfadoxine-pyrimethamine, họ dã áp dụng lồng ghép trong các đợt tiêm chủng mở rộng, tiêm chủng thai kỳ và chăm sóc thai kỳ ở các thời điểm khác nhau trong 9 tháng.

Ngoài ra, tại các vùng có SRLH cao châu Phi được bảo vệ thông qua hóa trị liệu phòng ngừa sốt rét theo mùa (seasonal malaria chemoprevention-SMC). Bên cạnh đó, tại châu Phi, TCYTTG khuyến cáo thực hiện xử lý lồng ghép ca bệnh dựa vào cộng đồng (integrated community case management - iCCM). Cách tiếp cận này thúc đẩy việc xử lý các tình trạng bệnh lý phổ biến đe dọa mạng sống ở trẻ em như SR, viêm phổi và tiêu chảy tại cơ sở y tế và cộng đồng.

Ngăn ngừa sốt rét trên nhóm phụ nữ trong thai kỳ ở châu Phi

Gần đây tác giả Mercy Nkiruka Agbo ở quận Ohaukwu thuộc bang Ebonyi, Nigeria thực hiện kêu gọi để giáo dục các bà mẹ tương lai về liệu pháp điều trị dự phòng sốt rét và tầm quan trọng của chăm sóc tiền sản.

Agbo là một nhân viên y tế cộng đồng (CHVs) có liên quan đến TIPTOP (Transforming Intermittent Preventive Treatment for Optimal Pregnancy - Một dự án thí điểm sáng tạo nhằm bảo vệ các bà mẹ và trẻ sơ sinh châu Phi khỏi bệnh sốt rét. Phối hợp với các bộ y tế, các tình nguyện viên dự án TIPTOP, dự án này điều trị dự phòng cách quãng cho thai kỳ tối ưu (Transforming Intermittent Preventive Treatment for Optimal Pregnancy -TIPTOP) và Bà Agbo đang nỗ lực mở rộng quyền tiếp cận dựa vào cộng đồng tới điều trị dự phòng cách quãng trong thai kỳ (intermittent preventive treatment in pregnancy- IPTp) tại 4 quốc gia thuộc vùng cận sa mạc Sahara,châu Phi, khu vực mang gánh nặng bệnh tật nặng nhất trên toàn cầu.


Hình 6

Hơn 50 triệu phụ nữ ở vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi có thai mỗi năm và có nguy cơ phơi nhiễm với ký sinh trùng sốt rét P. falciparum nguy hiểm nhất trên toàn cầu. Nếu không được điều trị, sốt rét trong thai kỳ có thể dẫn đến tử vong mẹ, thiếu máu và trọng lượng khi sinh thấp, dễ đưa đến tử vong ở trẻ sơ sinh. IPTp với thuốc sulfadoxine-pyrimethamine (SP) đảm bảo chất lượng có thể ngăn ngừa sự phát triển những tác hại này và các hậu quả bất lợi khác.


Hình 7

Kể từ năm 2012, Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đã khuyến cáo sử dụng 3 liều IPTp-SP trở lên cho phụ nữ mang thai (PNMT) sống ở tất cả khu vực lan truyền bệnh sốt rét từ trung bình đến cao ở châu Phi. Thuốc nên được dùng trong các lần khám thai định kỳ hay chăm sóc trước sinh (ANC-antenatal care) bắt đầu càng sớm càng tốt trong ba tháng thứ hai của thai kỳ, dưới sự giám sát của một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe được đào tạo.

Có lẽ độ bao phủ của IPTp-SP vẫn còn thấp, vì khuyến nghị của TCYTTG về chiến lược IPTp-SP như là một chiến lược an toàn và hiệu quả cao để ngăn ngừa bệnh sốt rét trong thai kỳ được củng cố bởi nhiều bằng chứng. Tuy nhiên, việc tiếp cận với liệu pháp phòng ngừa trong suốt thai kỳ vẫn còn thấp.


Hình 8

Theo Báo cáo sốt rét thế giới (WMR-WHO, 2018), chỉ có 22% PNMT đủ điều kiện nhận được từ 3 liều IPTp-SP trở lên được khuyến nghị tại 33 quốc gia châu Phi. Các rào cản tiếp cận bao gồm khoảng cách xa mà nhiều PNMT phải đi để đến các phòng khám thai và chi phí đi lại liên quan. Những người đến các cơ sở y tế (CSYT) có thể gặp khó khăn khi tiếp cận IPTp-SP do hết thuốc phòng ngừa hoặc thông tin không đầy đủ được cung cấp bởi nhân viên y tế. Một số dự án, bao gồm TIPTOP, nhằm vượt qua những thách thức này. TIPTOP được ra mắt vào năm 2017 bởi Jhpiego, một tổ chức phi lợi nhuận liên kết với Đại học Johns Hopkins, hợp tác với Viện Sức khỏe Toàn cầu Barcelona. Dự án được hỗ trợ bởi TCYTTG và công ty nghiên cứu sản xuất thuốc sốt rét và được tài trợ bởi Unitaid.

Agbo biết tất cả mọi người trong cộng đồng mà bà phục vụ và được ngưỡng mộ vì công việc tình nguyện của mình. Các nhân viên y tế tình nguyện như Agbo là chìa khóa thành công của chiến lược TIPTOP, sử dụng các thành viên của cộng đồng được chỉ định để phân phối IPTp-SP đảm bảo chất lượng, đồng thời, khuyến khích phụ nữ mang thai tìm kiếm sự chăm sóc toàn diện tại các cơ sở ANC.


Hình 9

Những nỗ lực này dự kiến ​​sẽ củng cố mối quan hệ hợp tác giữa các cơ sở y tế ANC và cộng đồng. Agbo đã được đào tạo đặc biệt cho vai trò này. Nhân viên y tế cộng đồng đủ điều kiện phải đến từ cộng đồng và có một trình độ học vấn cơ bản. Khi bà đi vòng quanh trong cộng đồng của mình, Agbo được cung cấp thuốc SP đảm bảo chất lượng và thuốc được cung cấp cho cô định kỳ bởi một phòng khám ANC. Thông qua các cuộc gọi tại nhà hằng tháng, cô có thể giáo dục các bà mẹ tương lai về liệu pháp phòng ngừa sốt rét và tầm quan trọng của việc chăm sóc tiền sản toàn diện tại cơ sở ANC gần nhất; nhận biết các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh sốt rét; xác định thời điểm và cách sử dụng SP cách quãng trong thai kỳ và khuyến khích sử dụng màn tẩm hóa chất diệt muỗi.

Nigeria đang tích cực nỗ lực cải thiện khả năng kiểm soát sốt rét với lý do chính đáng rằng năm 2017, nước này chiếm tới 25% số ca sốt rét thế giới và gần 1/5 (19%) các ca tử vong liên quan đến sốt rét. Đây là 1 trong 4 quốc gia mà dự án TIP-TOP đang hỗ trợ cùng với Congo, Madagascar và Mozambique. Elaine Roman, Giám đốc dự án TIPTOP tại Jhpiego cho biết Nigeria được cho là nước có gánh nặng sốt rét lớn nhất nhưng tác động sốt rét với PNMT rất thấp trong tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh nói chung và sử dụng IPTs thấp ở quốc gia này nói riêng.

Do đó, Nigeria là một quốc gia trọng điểm thực hiện dự án. Trong thời gian 5 năm của dự án TIPTOP sẽ được triển khai tại 3 bang của Nigeria: Bang Ebonyi, trong giai đoạn đầu tiên và sau đó là bang Niger và Ogun. Khu vực Ohaukwu của Ebonyi, nơi Agbo làm việc báo cáo các trường hợp mắc bệnh sốt rét cao nhất trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm.


Hình 10

Theo TS. Lynda Ozor thuộc Chương trình Quốc gia PCSR của Nigeria, sự biến động tỷ lệ lan truyền có một phần liên quan đến chu kỳ mùa mưa. Đỉnh cao lây truyền trùng khớp với mùa mưa, nơi nhìn thấy các khu vực sinh sản của muỗi phát triển trong và xung quanh nơi con người sinh sống. Tỷ lệ mắc mới bệnh sốt rét rất cao trong quần thể vì muỗi chỉ đốt một người bị nhiễm bệnh và tiếp tục chu kỳ lan truyền. Theo hướng dẫn sửa đổi năm 2016 của TCYTTG về chăm sóc tiền sản, một phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên có ít nhất 8 lần tiếp xúc với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong thai kỳ.

Tuy nhiên, Agbo phải làm việc quanh năm vì lây truyền không biết mùa nào và vì một phụ nữ mang thai nên nhận được liệu trình điều trị SP đầy đủ bất kể người phụ nữ ấy có bị nhiễm sốt rét hay không. Sự hiện diện thường xuyên của Agbo cũng phục vụ sự tăng cường mối quan hệ giữa các dịch vụ mới dựa vào cộng đồng được cung cấp thông qua TIPTOP và các dịch vụ chăm sóc tiền sản.


Hình 11

Thông qua dự án TIPTOP, phụ nữ mang thai được tiếp cận ngay với thuốc điều trị dự phòng được khuyến cáo trong cộng đồng và được khuyến khích hoàn thành việc kiểm tra thường xuyên tại các cơ sở y tế đầy đủ dịch vụ.

Những người này được giới thiệu đến các cơ sở ANC rất quan trọng: sự gia tăng số lượng tiếp xúc giữa các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và phụ nữ mang thai tạo cơ hội mở rộng độ bao phủ của cả IPTp và chăm sóc tiền sản. Dự án này tìm cách kiểm tra tính khả thi của việc giới thiệu IPTp ở cấp độ cộng đồng, đồng thời tăng cường độ bao phủ ở phụ nữ mang thai và cải thiện kết quả sức khỏe cho mẹ và trẻ sơ sinh. Kể từ năm 2016, TCYTTG đã khuyến cáo mức tối thiểu 8 lần tiếp xúc giữa phụ nữ mang thai và hệ thống y tế trong thai kỳ so với 4 lần khám thai được khuyến nghị trước đó. Mỗi lần tiếp xúc nên cung cấp một cơ hội cho việc chăm sóc chất lượng cao, bao gồm chăm sóc y tế dự phòng và chữa bệnh, hỗ trợ và cung cấp thông tin thích hợp và kịp thời.


Hình 12

Tất cả kế hoạch và chiến lược đều phải dựa trên y học chứng cứ, TCYTTG hiện không xác nhận cách tiếp cận dựa vào cộng đồng để cung cấp IPTp. Theo hướng dẫn của TCYTTG, IPTp nên được cung cấp bởi các nhà cung cấp y tế được đào tạo tại các cơ sở chăm sóc tiền sản. Mục tiêu chính của Dự án TIPTOP là tạo ra bằng chứng từ vùng cận Sahara, châu Phi về việc cung cấp IPTp ở cấp cộng đồng. Bằng chứng này sẽ được đánh giá trong khóa học, cùng với bằng chứng được tạo ra từ các dự án tương tự khác, có thể hướng dẫn các khuyến nghị chính sách của TCYTTG trong tương lai để ngăn ngừa bệnh sốt rét trong thai kỳ. TS. Ozor cho biết, dự án này tìm cách kiểm tra tính khả thi của việc giới thiệu IPTp ở cấp độ cộng đồng, đồng thời tăng cường độ bao phủ ở PNMT và cải thiện kết quả sức khỏe cho mẹ và trẻ sơ sinh.

Mặc dù đây là những ngày đầu của dự án TIPTOP triển khai IPTp-SP ở cấp cộng đồng tại Nigeria đã bắt đầu vào tháng 7 năm 2018, cơ sở quan trọng đã được đặt ra. Các đối tác đã phát triển một gói đào tạo cho nhân viên y tế cộng đồng và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc tiền sản nhằm bổ sung cho các tài liệu đào tạo quốc gia hiện có. Cùng với cán bộ y tế, các đối tác của TIPTOP cũng đang nỗ lực để đảm bảo rằng các khu vực dự án có đầy đủ thuốc phòng ngừa được đảm bảo chất lượng.



Hình 13

5. Hệ thống giám sát dịch tễ sốt rét

Giám sát hiệu quả các trường hợp SR và TVSR là điều cần thiết để xác định các khu vực hoặc nhóm dân bị ảnh hưởng nhiều nhất và huy động các nguồn lực tác động tối đa. Một hệ thống giám sát mạnh đòi hỏi mức độ tiếp cận cao tới chăm sóc và phát hiện ca bệnh và báo cáo đầy đủ thông tin y tế bởi tất cả lĩnh vực, dù là công hay tư nhân đều góp phần cho số liệu đầy đủ thông qua các kênh.

Hiện nay, các quốc gia đã triển khai áp dụng nhiều phần mềm trên nền công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý đã quản lý đầy đủ một ca bệnh và báo cáo trong thời gian sớm nhất. Mạng lưới loại trừ đang mở rộng với nhiều nước đang hướng tới zero ca bệnh tại chỗ vì đây là chỉ điểm đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp và là mốc quan trọng của mục tiêu toàn cầu vào năm 2030. Hiện tại, TCYTTG đang hợp tác với các nước hỗ trợ mục tiêu tăng tốc loại trừ.


Hình 14

5. Những thách thức trong việc ứng phó sốt rét hiện nay

Những thách thức đang phải đối mặt trong đáp ứng SR toàn cầu có nhiều và như đã được nhấn mạnh trong báo cáo, nhiều rào cản đang xuất hiện để đạt được các mốc quan trọng vào năm 2020 và 2025 là sự gia tăng liên tục bệnh SR ở các nước có gánh nặng bệnh tật cao nhất và nguồn lực kinh phí quốc tế và trong nước không đầy đủ. Đồng thời, sự xuất hiện KSTSR kháng thuốc và muỗi kháng hóa chất đang gây ra mối đe dọa cho thành quả.


Hình 15

5.1. Ký sinh trùng kháng thuốc và muỗi kháng hóa chất

Thuốc phối hợp có thành phần artemisinine (ACTs) không thể phủ nhận trong đóng góp sự thành công trong cuộc chiến PCSR toàn cầu và bảo vệ hiệu quả của thuốc để điều trị bệnh SR là một ưu tiên sức khỏe toàn cầu. Hầu hết, nghiên cứu được tiến hành từ năm 2010-2017 cho thấy thuốc ACTs vẫn còn hiệu lực, với tỷ lệ hiệu quả điều trị chung trên 95% tại các quốc gia trên thế giới, ngoại trừTiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS). Ở châu Phi, chưa có báo cáo kháng artemisinin cho đến nay.

Mặc dù đa kháng thuốc, trong đó có artemisinin và kháng thuốc đi kèm đã được báo cáo tại các nước Campuchia, Việt Nam, Myanmar, Thái Lan và Lào, nhưng đã có một sự giảm lớn số BNSR và TVSR trong tiểu vùng này. Giám sát hiệu quả thuốc đã dẫn đến việc cập nhật kịp thời các chính sách thuốc điều trị SR ở hầu hết các nước.


Hình 16

Báo cáo toàn cầu của TCYTTG công bố gần đây về kháng hóa chất trong phòng chống vector: giai đoạn (2010-2016) cho thấy sự đề kháng tới bốn nhóm hóa chất thường được dùng gồm pyrethroid, chlor hữu cơ, carbamate và phospho hữu cơ - rất phổ biến trên tất cả vector chính trên khắp khu vực châu Phi, châu Mỹ, Đông Nam Á, Đông Địa Trung Hải và Tây Thái Bình Dương.

Trong số 80 quốc gia có SRLH đã cung cấp dữ liệu trong giai đoạn (2010-2017), có kháng với ít nhất 1 trong 4 lớp hóa chất trong 1 vector sốt rét từ 1 địa điểm thu thập đã được phát hiện tại 68 quốc gia, một sự gia tăng so với năm 2016 do cải thiện báo cáo và 3 quốc gia mới báo cáo về kháng lần đầu tiên. Tại 57 quốc gia có báo cáo về sự đề kháng với 2 hoặc nhiều hơn các lớp hóa chất.


Hình 17

Kháng hóa chất nhóm pyrethroid - lớp hóa chất duy nhất hiện nay được sử dụng trong ITNs, phổ biến và đã được phát hiện ít nhất một loại vector SR và cao nhất trong khu vực châu Phi và Đông Địa Trung Hải. Kháng với hóa chất chlor hữu cơ đã được phát hiện trên ít nhất một vector SR trong số hơn 2/3 số điểm thử nghiệm và kháng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.

Kháng với hóa chất carbamate và photpho hữu cơ ít phổ biến hơn và đã được phát hiện ở mức tương ứng là 33% và 27% tại các điểm thử nghiệm. Tỷ lệ kháng cao nhất với carbamate trong khu vực Đông Nam Á và với chlor hữu cơ trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Với tình hình hiện nay, kế hoạch giám sát và xử lý tình trạng kháng hóa chất là rất cần thiết, phù hợp với kế hoạch toàn cầu của TCYTTG về xử lý kháng thuốc trừ sâu trong vectơ sốt rét. Đến nay, 40 quốc gia đã hoàn thành các kế hoạch này.


Hình 18

Màn tẩm ITNs tiếp tục là một công cụ hữu hiệu để phòng ngừa SR, thậm chí ở những nơi muỗi đã phát triển khả năng kháng với pyrethroid. Điều này được minh chứng bằng một đánh giá đa quốc gia do TCYTTG điều phối từ năm 2011-2016 tại các điểm nghiên cứu ở 5 quốc gia.

Hãy chung tay cùng nhau loại trừ sốt rét

Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng sốt rét gây ra và lây lan do muỗi cái Anopheles nhiễm bệnh truyền từ người bệnh sang người lành. Sốt rét hiện nay lưu hành chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, bán nhiệt đới, những nơi nguồn lực còn hạn chế, xa xôi, hẻo lánh và tác động rất lớn tới sức khỏe và sinh kế của người dân, đăc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, người giao lưu qua biên giới, khai thác lâm thổ sản, buôn bán. Hiện chưa có vaccine đặc hiệu nhưng sốt rét là một căn bệnh có thể phòng ngừa và chữa khỏi hoàn toàn.

Theo báo cáo của Trung tâm Y kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Trị, bệnh nhân sốt rét thường xuất hiện và cao điểm từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm tại một số thôn, bản thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng sau đó lan rộng ra các xã khác và tính cả năm 2018 toàn tỉnh có 101 bệnh nhân sốt rét trong đó có 91 ca có ký sinh trùng, trong đó chủng P.falciparum chiếm tới 71,42 % tại 29 xã/ 6 huyện với nhiều đối tượng khác nhau, chủ yếu tại hai huyện trọng điểm sốt rét là Hướng Hóa (56,4%) và Đakrông (26,7%); ngoài ra tại một số huyện khác như Triệu Phong, Vĩnh Linh, Cam Lộ một số đối tượng nhiễm là do giao lưu vào vùng sốt rét lưu hành.


Muỗi Anopheles - trung gian truyền bệnh sốt rét

Trước tình hình sốt rét biến động, ngành y tế Quảng Trị đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn tỉnh tập trung vào việc khống chế sốt rét như cử nhiều đoàn giám sát, điều tra và xử lý ổ bệnh, tập huấn lại phác đồ điều trị sốt rét theo hướng dẫn của Bộ Y tế cho đội ngũ y tế từ tuyến thôn bản, y tế xã và nhân viên tham gia điều trị sốt rét tuyến huyện; phân bổ gần 20.000 test chẩn đoán nhanh cho các tuyến y tế tại 6 huyện dự án RAI2E, cung cấp đầy đủ các loại thuốc sốt rét nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị cho các thể bệnh và chủng loại ký sinh trùng, gần 40.000 chiếc võng màn và màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu dài được cấp miễn phí cho các xã thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, dân nghèo, dân giao lưu; chuyển tải các thông điệp truyền thông về phòng chống sốt rét trên sóng của Đài phát thanh- truyền hình tỉnh, Báo Quảng Trị; tổ chức các chiến dịch truyền thông phòng chống sốt rét tại các xã có nhiều bệnh nhân mắc sốt rét như xã Thanh, Xy, Ba Tầng huyện Hướng Hóa; xã Đakrông, Banang,Talong huyện Đakrông thu hút hàng ngàn người tham dự với đủ mọi thành phần và lứa tuổi, tổ chức phun tồn lưu trong nhà bổ sung đợt hai tại các xã Talong, Đakrông, Banang (huyện Đakrông); xã Xy, Thanh và một số thôn tại các xã có sốt rét gia tăng tại chỗ như A Dơi, Hướng Lộc (huyện Hướng Hóa) trong các tháng 9 -10, bảo vệ cho gần 38.000 người.


Ra quân chiến dịch phun tẩm hưởng ứng ngày thế giới PCSR 25/4 tại vùng Lìa

Mặc dầu, công tác phòng chống sốt rét đã được triển khai trên địa bàn Quảng Trị trong một thời gian rất dài nhưng số ca mắc sốt rét giảm chậm, số ca nhiễm sốt rét tại chỗ còn cao (Hướng Hóa chiếm 60%, Đakrông chiếm 71%) chủ yếu tại các thôn bản vùng sâu, vùng xa của các xã Thanh, Xy, Ba Tầng, Talong, Đakrông, Ba nang là những xã thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng; việc nâng cao nhận thức cho các quần thể dân cư sống trong vùng sốt rét chưa có nhiều chuyển biến vì đa phần là đồng bào dân tộc thiểu số, tập quán ngủ màn chưa thường xuyên, giao lưu vào rừng, rẫy ngủ lại qua đêm đặc biệt là trong các mùa vụ thu hoạch.Thông tin thu thập qua điều tra các ca bệnh sốt rét tại cộng đồng cho biết người dân ngủ màn thấp, không chỉ ở đối tượng giao lưu và ngay cả ngủ tại nhà, số màn tẩm hóa chất tồn lưu được cấp miễn phí không đem ra sử dụng hết, cấu trúc nhà nhỏ, khi phun không bao phủ hết diện tích; phần lớn số người bị sốt đến cơ sở y tế chậm (> 3 ngày chiếm tới 23% tại Hướng Hóa và 36% tại huyện Đakrông) nên nguy cơ tử vong rất lớn đặc biệt với đối tượng là trẻ em và phụ nữ mang thai khi bị nhiễm chủng P.falcparum. Bên cạnh đó, công tác truyền thông tại cộng đồng và cho đối tượng đích còn thấp, tỷ lệ người dân biết được 4 thông điệp về phòng chống qua điều tra trong năm 2018 tại 6 xã vùng sốt rét lưu hành huyện Hướng Hóa chưa đạt 90%.


Dân giao lưu di biến động qua cửa khẩu Lao Bảo

Để làm giảm số ca mắc sốt rét và tránh tử vong do sốt rét, Dự án Sáng kiến khu vực ngăn chặn và loại trừ sốt rét kháng thuốc giai đoạn 2018-2020 (gọi tắt là RAI2E) đã hỗ trợ một nguồn kinh phí cho các nhân viên y tế thôn bản hàng tuần lồng ghép giám sát bệnh nhân tại cộng đồng thông qua thăm hộ gia đình và truyền thông tại nhà. Thông điệp cần chuyển tải đối với người dân là: Bệnh sốt rét là do muỗi truyền; phun thuốc trừ sâu trong nhà và ngủ màn tẩm hóa chất diệt khi ở nhà cũng như khi đi rừng, ngũ rẫy là biện pháp phòng chống sốt rét tốt nhất; khi bị sốt hãy đến ngay các cơ sở y tế gần nhất để được khám, xét nghiệm và điều trị; và hãy tuân thủ phác đồ điều trị theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Do đó, để đa dạng hóa các loại hình truyền thông nhằm chuyển tải các thông điệp về phòng chống sốt rét cho người dân,Trung tâm Y tế các huyện, thị cần phối hợp với ngành giáo dục tập trung vào lứa tuổi học sinh tại các trường học vì hiện nay các xã có số ca nhiễm sốt rét đều có trường phổ thông cơ sở, và tại nhiều nơi có trường phổ thông trung học. Đây là đối tượng dễ tiếp thu kiến thức, hơn nữa hầu hết các nhà đều có con em mình đi học nên việc phổ biến lại cho người nhà rất cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện thông qua ngôn ngữ bản địa. Đối với đối tượng nguy cơ cao như dân đi rừng, ngũ rẫy cần vận động họ mang theo màn và ngũ màn khi ở lại qua đêm và đến trạm y tế xã nhận thuốc tự điều trị phòng khi bị sốt xa cơ sở y tế. Đối với đối tượng tại chỗ tập trung vào phụ nữ vì đối tượng này quán xuyến mọi công việc trong gia đình. Với những người bị sốt rét, cán bộ trạm y tế xã thực hiện cho bệnh nhân uống thuốc có sự giám sát trực tiếp (DOTs), đặc biệt với những nơi có số ca nhiễm P.vivax lớn như xã Ba tầng (83,3%) cần phối hợp với nhân viên y tế thôn bản nơi sở tại và người nhà bệnh nhân đảm bảo thuốc vào tận dạ dày trong vòng 14 ngày phòng tránh tái phát xa.


Quân Y biên phòng hướng dẫn cho người dân các biện pháp PCSR

Xã hội hóa công tác y tế nói chung và phòng chống sốt rét nói riêng là một nhiệm vụ vừa cấp bách trong thời điểm hiện nay vừa mang tính lâu dài không chỉ nhằm đạt được mục tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét mà còn đề phòng sốt rét tái diễn tại những nơi không có sốt rét lây truyền tại chỗ trong nhiều năm liền.

Lộ trình phòng chống và loại trừ sốt rét đã được Chính phủ và Bộ Y tếvạch ra, Quảng Trị phấn đấu đến năm 2021 loại trừ căn bệnh này ra khỏi cộng đồng. Do vây, ngay từ bây giờ bên cạnh các nỗ lực chuyên môn của ngành y tế thì rất cần sự chung tay vào cuộc của các ngành, các cấp và người dân trên địa bàn nhằm thực hiện Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống sốt rét 25/4/ 2019 là: Hãy chung tay cùng nhau loại trừ sốt rét.

Một số thông tin về Ngày sốt rét thế giới (25/4/2019) và Ngày sức khỏe thế giới-7/4/2019

Ngày sốt rét thế giới -25/4/2019

“ Không có ca sốt rét bắt đầu với tôi”

Sau hơn một thập kỷ tiến bộ đều đặn trong việc chống lại bệnh sốt rét, nay tiến bộ đã chững lại. Theo Báo cáo sốt rét thế giới (WMR) mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), không có thành tựu đáng kể nào trong việc làm giảm các ca sốt rét trong giai đoạn 2015-2017. Ước tính số ca tử vong do sốt rét trong năm 2017, ở mức 435.000 ca, hầu như không thay đổi so với năm trước. Hành động khẩn cấp là cần thiết để đưa đáp ứng toàn cầu về bệnh sốt rét trở lại đúng hướng và những thách thức nằm trong tay các quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi bệnh sốt rét. Vào Ngày sốt rét thế giới 2019, TCYTTG tham gia cùng với Đối tác Đẩy lùi sốt rét (RBM) nhằm chấm dứt bệnh sốt rét, Ủy ban Liên minh châu Phi và các tổ chức đối tác khác trong việc thúc đẩy “Không có ca bệnh sốt rét bắt đầu với tôi” - Một chiến dịch cấp cơ sở nhằm mục đích giữ cho bệnh sốt rét cao trong chương trình nghị sự chính trị, huy động thêm nguồn lực và trao quyền cho các cộng đồng chủ động phòng chống và chăm sóc bệnh sốt rét.

 

 

 Khu vực Châu Phi của TCYTTG tiếp tục chiếm hơn 90% gánh nặng sốt rét toàn cầu. Điều đáng lo ngại, trong 10 quốc gia châu Phi bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi bệnh sốt rét, ước tính có thêm 3,5 triệu ca bệnh trong năm 2017 so với năm trước.

Sự tự chủ của quốc gia là chìa khóa thành công

Chiến dịch “không có ca sốt rét” lần đầu tiên được triển khai tại Senegal vào năm 2014 đã chính thức được chứng nhận tại Hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Phi bởi tất cả nguyên thủ quốc gia châu Phi vào tháng 7 năm 2018. Chiến dịch thu hút tất cả thành viên của xã hội: các nhà lãnh đạo chính trị kiểm soát các quyết định chính sách và ngân sách của chính phủ, các công ty thuộc khu vực tư nhân sẽ được hưởng lợi từ lực lượng lao động không có sốt rét và các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi bệnh sốt rét, những người mua và sở hữu các biện pháp can thiệp sốt rét là rất quan trọng để thành công.

Như Tổng Giám đốc TCYTTG đã lưu ý, việc trao quyền cho cá nhân và cộng đồng thông qua các sáng kiến ​​cơ sở như chiến dịch “Không có ca sốt rét” có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét trên toàn cầu (Dr Tedros Adhanom Ghebreyesus, WHO Director-General).

“Trên toàn cầu, thế giới đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét, nhưng chúng ta vẫn còn quá xa điểm cuối mà chúng ta tìm kiếm: Một thế giới không có bệnh sốt rét. Hàng năm, tổng số ca sốt rét mới trên toàn cầu vượt quá 200 triệu và cứ 2 phút, một đứa trẻ lại chết vì căn bệnh có thể phòng ngừa và điều trị này. Thiệt hại gây ra vượt xa sự mất mát của cuộc sống. Bệnh sốt rét gây thiệt hại nặng cho các hệ thống y tế, làm giảm năng suất và làm xói mòn tăng trưởng kinh tế. Rốt cục, đầu tư vào chăm sóc sức khỏe toàn cầu là cách tốt nhất để đảm bảo rằng tất cả các cộng đồng đều có quyền tiếp cận vào các dịch vụ họ cần để đánh bại bệnh sốt rét.Trao quyền cho cá nhân và cộng đồng thông qua các sáng kiến ​​cấp cơ sở như “ không có ca sốt rét bắt đầu với tôi, cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ (TS Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc TCYTTG)

 

 

Thông điệp chính

Từ năm 2000, các quốc gia bị ảnh hưởng bởi sốt rét và các đối tác phát triển của họ đã đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc giảm tổng số ca mắc sốt rét và tử vong. Tuy nhiên, số người mắc sốt rét vẫn ở mức cao không thể chấp nhận được. Cứ sau hai phút, một đứa trẻ lại chết vì căn bệnh vốn có thể phòng ngừa và điều trị này và mỗi năm, hơn 200 triệu trường hợp mới mắc bệnh được báo cáo.

TCYTTG đặc biệt quan ngại bởi các xu hướng được nhìn thấy trong những năm gần đây kể từ năm 2015. Báo cáo sốt rét thế giới mới nhất của TCYTTG cho thấy tiến bộ đã chững lại và ở một số quốc gia, bệnh sốt rét đang gia tăng. Hai mục tiêu quan trọng trong chiến lược sốt rét toàn cầu của chúng ta có khả năng không đạt được. Thay đổi quỹ đạo của các xu hướng sốt rét hiện tại sẽ đòi hỏi tăng cường và phối hợp hành động của tất cả các bên liên quan, nhưng tiến bộ chỉ có thể đạt được thông qua các đáp ứng sốt rét ở mức độ quốc gia.

 

 

Ngày sức khỏe thế giới-7/4/2019

Bao phủ y tế toàn dân là mục tiêu số một của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) và là chìa khóa để đạt được điều đó là đảm bảo mọi người đều có thể nhận được sự chăm sóc mà họ cần, khi họ cần nó, ngay trong lòng cộng đồng. Tiến bộ đang được thực hiện ở các nước trong tất cả các khu vực trên thế giới. Song hàng triệu người vẫn không được tiếp cận chút nào với chăm sóc sức khỏe. Hàng triệu người buộc phải lựa chọn giữa chăm sóc sức khỏe và các chi phí hàng ngày khác như thực phẩm, quần áo và thậm chí là một ngôi nhà. Đây là lý do tại sao TCYTTG tập trung vào độ bao phủ y tế toàn dân cho Ngày Sức khỏe Thế giới năm nay.

Về chiến dịch-Những gì chúng tôi nhắm đến để đạt được thông qua chiến dịch

Chiến dịch này nhằm mục đích giúp mọi người hiểu rõ hơn về bao phủ y tế toàn dân nghĩa là gì? các dịch vụ và hỗ trợ nào sẽ có sẵn và ở đâu. Chúng tôi sẽ cung cấp tài liệu trực quan giúp người dân có quyền tiếp cận vào dịch vụ CSSK có chất lượng, giá cả phải chăng để hiểu cuộc sống của những người không có nó như thế nào và ủng hộ việc tiếp cận CSSK như nhau ở mọi nơi. Nhân viên y tế sẽ có một vai trò quan trọng trong chiến dịch, giúp những người ra quyết định về sức khỏe nhận ra những gì người dân cần về mặt chăm sóc, đặc biệt là ở cấp độ CSSK ban đầu.  Chiến dịch này cũng tạo cơ hội cho các bộ trưởng y tế và các nhà hoạch định khác của chính phủ cam kết hành động để giải quyết các bất cập trong bao phủ y tế toàn dân ở nước họ, cũng như nêu bật những tiến bộ đã đạt được.

Đối với Ngày Sức khỏe thế giới, chúng tôi sẽ phát hành công bố dữ liệu sức khỏe hàng năm của TCYTTG, Báo cáo thống kê sức khỏe thế giới. Báo cáo sẽ bao gồm thông tin về xu hướng sức khỏe trong các lĩnh vực cụ thể như sức khỏe trẻ sơ sinh và trẻ em, các bệnh không lây nhiễm, các nguy cơ về sức khỏe tâm thần và môi trường và dữ liệu về bao phủ y tế toàn dân và hệ thống y tế.

Ngày Sức khỏe thế giới 2019 rơi vào giữa Hội nghị Toàn cầu về Chăm sóc Sức khỏe ban đầu được tổ chức tại Astana, Kazakhstan vào tháng 10 năm 2018 và Hội nghị Cấp cao về Bao phủ y tế toàn dân sẽ được tổ chức tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 2019. Ngày này là một trong nhiều cơ hội để nói về tầm quan trọng của sự công bằng trong các dịch vụ CSSK, không chỉ đối với sức khỏe của cá nhân mà còn đối với sức khỏe của các nền kinh tế và xã hội nói chung.

Quảng Trị: Hướng tới lộ trình loại trừ sốt rét

Tính từ ngày tái lập tỉnh đến nay, công tác phòng chống sốt rét trên địa bản tỉnh nhà đã thu được nhiều thắng lợi. Từ con số hàng ngàn ca mắc, hàng chục ca tử vong do sốt rét, đến nay, diện sốt rét đã thu hẹp dần. Đặc biệt, đến năm 2014, số xã nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng còn 12/ 24 xã, giảm ½ so với năm 2009. Tính đến cuối tháng 12/2018, cả tỉnh ghi nhận 101 ca bệnh; 92 ký sinh trùng sốt rét; giảm 80% về ca bệnh ( 101/ 506) và giảm hơn 76% về ký sinh trùng( 91/ 418) so với năm 2014. Sốt rét chủ yếu tập trung tại các xã vùng Lìa huyện Hướng Hóa như Xy, Thanh, Thuận, Hướng Lộc, Ba Tầng..., một số xã tại huyện Đakrông như Tà Long, Ba Nang, Đakrông. Một số xã thuộc vùng sốt rét lưu hành trước đây ở các huyện còn lại như Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ thì số ca mắc sốt rét giảm rất thấp, nhiều xã trong nhiều năm liền không ghị nhận được ca bệnh nào.

Có được những thành tựu đáng ghi nhận trong công cuộc phòng chống sốt rét của tỉnh Quảng Trị hôm nay là do sự đầu tư có trọng tâm, đúng hướng của Nhà nước và Bộ Y tế;các tổ chức quốc tế; Dự án phòng chống sốt rét quốc gia; Dự án Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét. Đặc biệt là sự nỗ lực vượt bậc của đội ngũ cán bộ Y tế tỉnh nhà trong nhiều năm liền, sự phối hợp chặt chẽ của ngành Y tế với chính quyền các cấp và sự hưởng ứng tích cực của người dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác phòng chống sốt rét của tỉnh nhà hiện cũng đang đối diện với nhiều thách thức to lớn. Cụ thể là số xã có ca mắc sốt rét tại các huyện trọng điểm còn lớn như Hướng Hóa chiếm 68% (15/22 xã), Đakrông chiếm tới 50% (7/14 xã) và dân số sống trong vùng sốt rét ở các mức độ khác nhau trên địa bàn tỉnh vẫn còn cao (30% dân số toàn tỉnh). Sự chủ quan trong việc bảo vệ các thành quả đã đạt được của các cấp chính quyền kèm theo sự lơ là của người dân; sự phối hợp không đồng bộ của các tuyến trong công tác phòng chống sốt rét đã tác động xấu đến việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét của tỉnh nhà. Đặc biệt, tại những nơi có tỷ lệ mắc sốt rét còn cao nằm ở vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận nhanh với các cơ sở Y tế (hơn 3 ngày chiếm 36% tại huyện Đakrông và chiếm tới 23% tại huyện Hướng Hóa), việc phát hiện và điều trị tránh lây lan ra cộng đồng còn chậm, đối tượng nhiễm không chỉ là người lớn, giao lưu mà số lượng trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tới 26% tại huyện Đakrông và phụ nữ chiếm tới 42,1% tại Hướng Hóa chứng tỏ tình trạng lây nhiễm tại chỗ mà các can thiệp đề ra chưa mang lại hiệu quả tác động. Số xã cần thực hiện phòng chống sốt rét tích cực còn nhiều, trong đó, riêng huyện Hướng Hóa có 09 xã và huyện Đakrông có 03 xã chưa đạt tiêu chuẩn trong lộ trình loại trừ sốt rét của Bộ Y tế do chỉ số ký sinh trùng sốt rét trung bình trong 05 năm/ 1000 dân lớn hơn 1.

Thực hiện quyết định 1920/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét giai đoạn 2011- 2020 và định hướng đến năm 2030 và Quyết định 08/QĐ-BYT ngày 4 tháng 1 năm 2017 của Bộ Y tế về Phê duyệt lộ trình loại trừ sốt rét tại Việt Nam đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, Quảng Trị nằm trong số các tỉnh thuộc khu vực Miền Trung – Tây Nguyên đạt được mức độ loại trừ vào năm 2021, chậm hơn 2 năm so với quyết định của Bộ Y tế phê duyệt.

Để đạt được mục tiêu loại trừ sốt rét ra khỏi địa bàn toàn tỉnh theo lộ trình đã vạch ra, bên cạnh sự đầu tư nguồn lực từ Trung ương; chính quyền các cấp cần có cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc huy động nguồn lực kinh phí, đảm bảo thực hiện các giải pháp chuyên môn. Bao gồm việc bảo vệ cho các cộng đồng dân cư sống trong các vùng sốt rét lưu hành khoảng 100.000 người về tẩm màn và phun thuốc tồn lưu trong nhà để khống chế muỗi truyền bệnh sốt rét. Ưu tiên tập trung vào các xã trọng điểm sốt rét, vùng sâu, vùng xa, các ổ bệnh cũ, những nơi có tỷ lệ ký sinh trùng còn cao. Đẩy mạnh công tác giám sát dịch tễ các tuyến, phát hiện sớm và xử lý triệt để các ổ bệnh tránh lây lan ra cộng đồng. Huy động sự hưởng ứng và tham gia tích cực của các banngành đoàn thể như giáo dục, hội phụ nữ, Quân Y biên phòng, già làng trưởng bản để chuyển tải các thông điệp chính như Bệnh sốt rét là do muỗi truyền; Nằm màn đặc biệt là màn tẩm hóa chất diệt muỗi là biện pháp phòng chống sốt rét tốt nhất; Khi bị sốt hãy đến ngay các cơ sở Y tế để được khám, xét nghiệm, tư vấn và điều trị; Thuốc sốt rét được cấp miễn phí tại các cơ sở Y tế... nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về các biện pháp tự phòng chống sốt rét cho người dân. Đào tạo và đào tạo lại cho nhân viên Y tế các tuyến về giám sát, điều trị sốt rét theo quy định của Bộ Y tế hàng năm; đảm bảo cung cấp đủ thuốc, vật tư Y tế, hóa chất dùng cho phòng chống sốt rét. Củng cố và kiện toàn mạng lưới phòng chống sốt rét trong toàn tỉnh đảm bảo về số lượng và có chất lượng chuyên môn cao, thành thạo các kỹ năng đủ sức đáp ứng dự báo, phát hiện và xử lý tình hình khi có biến động về sốt rét.

Từ phòng chống tiến tới loại trừ sốt rét là một quá trình không hề dễ dàng, đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức và chi phí. Đồng thời cần tiếp tục có sự chung tay của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, sự nỗ lực đấu vượt qua khó khăn thách thức, biết nắm bắt cơ hội và tiến hành thường xuyên, hiệu quả các hoạt động phòng chống sốt rét để thực hiện thành công các mục tiêu về phòng chống sốt rét mà Quảng Trị đã đề ra. Từ đó góp phần cùng cả nước loại trừ bệnh sốt rét ra khỏi cộng đồng, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh nhà, xứng đáng với niềm mong đợi và tin yêu của người dân trong tỉnh./.

Một số nét chính của diễn biến sốt rét trên toàn cầu và Việt Nam 2017-2018

Tình hình sốt rét trên toàn cầu 2017-2018

Báo cáo sốt rét toàn cầu (WHO, 2018) từ Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) vừa qua cung cấp số liệu cập nhật toàn diện về dữ liệu và xu hướng sốt rét từng khu vực và toàn cầu cho biết những năm qua có nhiều đầu tư về kinh phí, kỹ thuật vào chương trình Phòng chống và Loại trừ sốt rét (PC

Trong năm 2017, ước tính có khoảng 219 triệu ca SR xảy ra trên toàn thế giới, so với 239 triệu ca trong năm 2010 và 217 triệu ca trong năm 2016 [59]. Mặc dù số liệu biểu hiện so với năm 2010, thì trong năm 2017 có ít hơn khoảng 20 triệu ca nhưng diễn tiến tình hình sốt rét giai đoạn từ 2015-2017 cho thấy dường như không có sự tiến triển đáng kể nào trong việc giảm số ca SR toàn cầu được thực hiện trong khoảng thời gian này.


Hình 1.Tình hình sốt rét trên phạm vi toàn cầu. Nguồn: WHO, 2016

Hầu hết bệnh nhân sốt rét (BNSR) trong năm 2017 đều nằm trong khu vực châu Phi (92%), tiếp theo là các quốc gia khu vực Đông Nam Á (5%) và khu vực Đông Địa Trung Hải (2%), diễn tiến tiếp tục phức tạp trong năm 2017 và 2018 [17]. Tổng số 15 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Phi và Ấn Độ chiếm gần 80% gánh nặng toàn cầu. Năm quốc gia chiếm gần ½tất cả BNSR trên toàn cầu là Nigeria (25%), Congo (11%), Mozambique (5%), Ấn Độ (4%) và Uganda (4%). 10 quốc gia có gánh nặng SR cao nhất ở châu Phi báo cáo có sự gia tăng số BNSR vào năm 2017 so với năm 2016. Trong đó, Nigeria, Madagascar và Congo có sự gia tăng được ước tính cao nhất.

Ngược lại, Ấn Độ báo cáo ít hơn 3 triệu BNSR so với cùng kỳ, giảm 24% so với năm 2016. Rwanda đã ghi nhận giảm gánh nặng SR, với 430.000 BNSR và Ethiopia và Pakistan rõ rệt hơn 240.000 BNSR so với cùng kỳ. Tỷ lệ mắc mới giảm trong giai đoạn (2010-2017), từ 72 xuống còn 59 ca/1000 dân có nguy cơ, con số này thể hiện mức giảm 18% trong giai đoạn này, nhưng số ca/1000 dân số có nguy cơ vẫn ở mức 59 so với toàn cầu trong 3 năm [59].


Hình 2

Số liệu ở các nước Đông Nam Á tiếp tục cho thấy bệnh giảm từ 17 ca/1000 dân có nguy cơ trong năm 2010 xuống còn 7 vào năm 2017 (giảm 59%). Tất cả khu vực khác đều ghi nhận có ít tiến triển hoặc gia tăng tỷ lệ mắc. Khu vực châu Mỹ ghi nhận gia tăng BNSR, phần lớn là do việc lan truyền ở Brazil, Nicaragua và Venezuela. Tại châu Phi, tỷ lệ mắc mới vẫn duy trì ở 219 ca/ 1000 dân có nguy cơ.


Hình 3. Bản đồ phân bố các vùng đang tiến tới loại trừ sốt rét 2017-2018.Nguồn: WHO, 2018

P. falciparum là loài ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) phổ biến nhất trong khu vực châu Phi, chiếm 99,7% số BNSR ước tính vào năm 2017, cũng như trong khu vựcĐông Nam Á (62,8%), Đông Địa Trung Hải (69%) và Tây Thái Bình Dương (71,9%).Trong khi đó, loài P. vivax là KSTSR chủ yếu ở khu vực châu Mỹ, chiếm 74,1% số BNSR. Tuy nhiên, cơ cấu KSTSR này đến nay vẫn đang tiếp tục thay đổi theo từng quốc gia và vùng lãnh thổ.

Báo cáo năm 2018 gồm một phần về đánh giá tình trạng thiếu máu do SR, một tình trạng bệnh lý nếu không được điều trị,có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt là phụ nữ mang thai (PNMT) và trẻ em dưới 5 tuổi. Thiếu máu đã từng là một chỉ điểm quan trọng đo lường sự tiến bộ trong PCSR và tỷ lệ hiện mắc được dùng để đánh giá hiệu quả của các can thiệp.

Mặc dù tình trạng thiếu máu do hậu quả trực tiếp và gián tiếp của SR nhưng tỷ lệ thiếu máu trong các nhóm BNSR không được báo cáo liên tục như là một số đo về mức độ lan truyền và gánh nặng bệnh tật. Dữ liệu từ các cuộc điều tra hộ gia đình được tiến hành ở 16 quốc gia có gánh nặng cao tại châu Phi trong giai đoạn 2015-2017 cho thấy, trong số trẻ em trong độ tuổi dưới 5, tỷ lệ thiếu máu ở các mức độ khác nhau là 61%, thiếu máu nhẹ là 25%, thiếu máu vừa là 33% và thiếu máu nặng là 3% [45],[59]. Trong số trẻ em được xét nghiệm dương tính với KSTSR, tỷ lệ thiếu máu chung là 79%, thiếu máu nhẹ là 21%, thiếu máu vừa là 50% và thiếu máu nặng là 8%.


Hình 4

Năm 2017, ước tính có 435.000 ca TVSR trên toàn cầu so với 451.000 ca TVSR ước tính trong năm 2016 và 607.000 ca trong năm 2010. Trẻ em dưới 5 tuổi là nhóm dễ bị tổn thương nhất liên quan SR. Trong năm 2017, trẻ em chiếm 61% (266.000 ca) trong số TVSR trên toàn cầu. Khu vực châu Phi chiếm 93% các trường hợp TVSR vào năm 2017.

Mặc dù châu Phi là nơi có số ca TVSR cao nhất vào năm 2017 và khu vực này cũng chiếm 88% số TVSR toàn cầu báo cáo vào năm 2017 (ít hơn 172.000 ca TVSR) so sánh với năm 2010. Gần 80% số ca TVSR toàn cầu trong năm 2017 tập trung ở 17 quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Phi và Ấn Độ, 7 trong số những nước này chiếm 53% tất cả ca tử vong toàn cầu gồm Nigeria (19%), Congo (11%), Burkina Faso (6%), Tanzania (5%), Sierra Leone (4%), Niger (4%), Ấn Độ (4%) [59].

Tất cả khu vực theo phân bố của TCYTTG ngoại trừ khu vực châu Mỹ ghi nhận sự sụt giảm số ca tử vong trong năm 2017 so với năm 2010. Sự sụt giảm lớn nhất xảy ra ở các khu vực Đông Nam Á (54%), Châu Phi (40%) và Đông Địa Trung Hải (10%). Mặc dù vậy, tỷ lệ giảm TVSR cũng chậm lại kể từ năm 2015, phản ánh lên các xu hướng ước tính về tỷ lệ mắc mới bệnh SR

Tình hình sốt rét tại Việt Nam năm 2017-2018

Tình hình sốt rét của Việt Nam hiện nay chỉ còn tập trung vào các khu vực miền Trung-Tây Nguyên và Nam Bộ-Lâm Đồng, các tỉnh phía Bắc có số mắc thấp hơn, chủ yếu là các ca ngoại lai từ nhóm dân di biến động và làm ăn tại các tỉnh có SRLH miền Trung-Tây Nguyên và Bình Phước, một số khác do lao động nước ngoài trở về nhưLào, Campuchia, Angola, Tanzania, Sudan, Nigeria.

Kết quả thực hiện PCSR và LTSR trên toàn quốc 12 tháng năm 2018 so sánh chỉ số SR với cùng kỳ năm 2017 cho thấy: Số BNSR toàn quốc giảm 18,3% (6.870/8.411), số KSTSR tăng 5,8% (4.813/4.548), tỷ lệ KSTSR/1.000 dân tăng 5,7%, số BNSR ác tính giảm 67,6% (12/37), số tử vong do SR giảm 5 ca (1/6) và không có dịch sốt rét xảy ra.

Bảng 1.1. Bệnh nhân st rétnăm 2018 so với cùng kỳ năm 2017 theo khu vực

TT

Khu vực

Năm 2018

Năm 2017

% tăng (+), giảm (-)

1

Miền núi phía Bắc

752

1.655

-54,56

2

Đồng bằng trung du Bắc bộ

592

1.040

-43,08

3

Khu IV cũ

579

971

-40,37

4

Ven biển miền Trung

962

1.079

-10,84

5

Tây Nguyên

2.538

2.060

23,20

6

Đông Nam Bộ

1.406

1.529

-8,04

7

Đồng bằng sông Cửu Long

41

77

-46,75

 

Toàn quốc

6.870

8.411

-18,32

 

Tiếp tục tập trung cao những vùng sốt rét lưu hành (SRLH) nặng, sốt rét kháng thuốc và các đối tượng nguy cơ cao, củng cố các yếu tố bền vững, ngăn chn sốt rét quay trở lại tiến tới LTSR. Số BNSR phân theo từng khu vực trong năm 2018 so với năm 2017 cho thấy Trừ khu vực Tây Nguyên, các khu vực khác đều có số BNSR giảm so với năm 2017. Đặc biệt, các khu vực miền núi phía Bắc, đồng bằng Trung du Bắc bộ, Khu IV cũ và Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long số BNSR giảm trên 40%.

Tây Nguyên là khu vực duy nhất có số BNSR gia tăng (23,2%) và đây là năm thứ 2 liên tiếp BNSR tăng ở khu vực này. Năm 2016 (1.440 ca), năm 2017 (2.060 ca), 2018 (2.538 ca).Năm 2017 tăng 43,1% (2.060/1.440) so với cùng kỳ 2016; năm 2018 tăng 23,20% (2.538/2.060) so với cùng kỳ 2017.Phân bố BNSR theo tháng toàn quốc năm 2018 so với năm 2017 và trung bình các tháng 5 năm 2013-2017 cho thấy sBNSR trong các tháng năm 2018 cao ở các tháng cuối năm (tháng 9 đến tháng 12) và các tháng đầu năm (tháng 1 đến tháng 3). BNSR giảm và duy trì mức 400-500 ca các tháng giữa năm (tháng 4 đến tháng 8) [2].

So với các tháng năm 2017, BNSR các tháng năm 2018 thấp hơn, các tháng năm 2017 thấp nhất 558 ca vào tháng 1, các tháng còn lại cao trên 600 ca và cao nhất vào tháng 12 năm 2017 với 1.043 ca. So với giai đoạn (2013-2017), số BNSR các tháng năm 2018 thấp hơn đáng kể, trung bình tháng giai đoạn (2013-2017) thấp ở các tháng 2 đến tháng 8, thấp nhất vào tháng 4 (1.287 ca) và cao nhất 10, 11, 12 và tháng 1 hàng năm (trên 1.700 ca).


Hình 5

Về diễn biến số BNSR và KSTSR giai đoạn (2009-2017) cho thấy số mắc giảm dần đều qua giai đoạn 10 năm (2009-2018) với số BNSR cao nhất là 60.867 ca, số lượng BNSR bắt đầu giảm từ năm 2010 (54.297) xuống còn 35.406 bệnh nhân năm 2013 và giảm dần qua các năm; năm 2018 BNSR là 6.870, giảm 88,71% so với năm 2009. Số KSTSR từ năm 2009 duy trì mức cao đến năm 2014 (16.130 ca, 15.752 ca) và giảm nhiều từ 2015-2016. Số KSTSR tăng liên tiếp trong 3 năm gần đây với năm 2016 (4.161 ca), năm 2017 (4.548 ca), 2018 (4.813 ca).

Số KSTSR năm 2018 giảm ở các khu vực, riêng Tây Nguyên tăng 27,18% so cùng kỳ năm 2017. Năm 2018, bệnh nhân có KST tăng ở 14 tỉnh Bắc Kạn tăng 1 ca (5/4), Hòa Bình tăng 2 ca (4/2), Hà Nội tăng 3 ca (16/13), Nghệ An tăng 8,33% (26/24). Khu vực miền Trung: Đà Nẵng tăng 3 ca (5/2), Thừa Thiên Huế tăng 8 ca (15/7), Phú Yên tăng 376,47% (324/68), Bình Định tăng 18,42% (45/38), Bình Thuận tăng 2 ca (102/100).

Khu vực Tây Nguyên có Gia Lai tăng 30,76% (1.101/842), Kon Tum tăng 26,42% (134/106), Đăk Lăk tăng 46,29% (768/525). Số lượng KSTSR 10 tỉnh cao nhất chiếm 89,03% tổng số KST toàn quốc (4.285/4.811) như Bình Phước 1.243 ca, Gia Lai 1.101 ca, Đắk Lắk 768 ca, Phú Yên 324 ca, Đăk Nông 218 ca, Lâm Đồng 175 ca, Kon Tum 134 ca, Khánh Hòa 125 ca, Bình Thuận 102 ca, Quảng Bình 95 ca. Trong đó, KSTSR tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh chiếm 64,66% (3.112/4.813) là Bình Phước, Gia Lai và Đắk Lắk.

BNSR ác tính của toàn quốc năm 2018 giảm 25 ca so với cùng kỳ năm 2017 (12/37), khu vực miền Bắc (1 ca), ven biển miền Trung (5 ca), khu vực Tây Nguyên (3 ca), Đông Nam bộ (1 ca), Đồng bằng Cửu Long (2 ca). Các tỉnh có số BNSR ác tính cao nhất thuộc vùng SRLH nặng như Bình Phước, Gia Lai, Khánh Hòa.

Số BNSR tử vong hàng năm giai đoạn 2009-2011 ở ngưỡng cao (14-27 ca), cao nhất là năm 2009 với 27 ca. Trong 5 năm gần đây, số tử vong do SR ở ngưỡng dưới 6 ca (1-6 ca) do công tác phát hiện và điều trị đã được tăng cường, bên cạnh biện pháp can thiệp bằng phun tồn lưu và tẩm màn hóa chất cũng như việc cung cấp màn tẩm hóa chất tồn lưu dài đã được chú trọng ở các quần thể nguy cơ trong vùng SRLH. Số tử vong năm 2018 giảm 5 ca so với năm 2017 (1/6).

Bảng 1.2. Các tỉnh/ thành có số KSTSR cao nhất năm 2018 vàso với 2017

TT

Tỉnh

KSTSR

năm 2018

Tỷ lệ KSTSR/

1.000 dân

Tỷ lệ KSTSR/

1.000 dân số SRLH

KSTSR năm 2017

% KSTSR tăng (+), giảm (-)

1

Bình Phước

1.243

1,28

1,51

1.352

-8,06

2

Gia Lai

1.101

0,76

1,13

842

+30,76

3

Đắk Lắk

768

0,40

0,52

525

+46,29

4

Phú Yên

324

0,34

1,03

68

+376,47

5

Đắk Nông

218

0,36

0,40

262

-16,79

6

Lâm Đồng

175

0,14

0,26

149

+17,45

7

Kon Tum

134

0,23

0,31

106

+26,42

8

Khánh Hoà

125

0,10

0,65

144

-13,19

9

Bình Thuận

102

0,08

0,15

100

+2,00

10

Quảng Bình

95

0,10

0,23

122

-22,13

 

Hai tỉnh có KSTSR cao nhất là Bình Phước và Gia Lai, có 6 tỉnh tăng KSTSR so với cùng kỳ năm 2017 như Gia Lai tăng 30,76%, Đăk Lăk tăng 46,29%, Phú Yên tăng 376,47%, Lâm Đồng tăng 17,45%, Kon Tum tăng 26,42%, Bình Thuận tăng 2%. Số lượng KSTSR năm 2018 cao nhất ở khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Đây cũng là nơi có 3 tỉnh có KSTSR cao nhất trong toàn quốc Bình Phước, Gia Lai và Đắk Lắk. Số lượng KSTSR khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chiếm 77,93% (3.751/4.813) so với tổng số KSTSR cả nước.

Điểm đặc biệt cần lưu ý là số BNSR từ năm 2017-2018 cao nhất ở các tỉnh Tây Nguyên có liên quan trên nhóm dân nguy cơ cao như đi rừng, ngủ rẫy và có liên quan công việc dài ngày trong rừng để lấy mật o­ng, phong lan, lấy gỗ, thu hoạch theo vào mùa vụ của từng vùng ở vùng giáp ranh giữa 3 tỉnh Phú Yên, Đăk Lăk và Gia Lai (vùng giao thoa giữa rừng quốc gia Yok Đôn) [2]. Năm 2018, cả nước có 4.813 bệnh nhân có KSTSR, trong đó P. falciparum chiếm 61,62%, P. vivax chiếm 36%, nhiễm phối hợp chiếm 2%. Cơ cấu KSTSR trong năm 2018 có sự khác nhau giữa các khu vực: Khu vực miền Bắc có 104 KSTSR, trong đó có 61 KST P. falciparum chiếm 58,65%; 38 KST P. vivax chiếm 36,54%; 2 ca P. malariae chiếm 1,92%, 2 ca P. ovale chiếm 1,92%, 1 KST phối hợp chiếm 0,96%. Khu vực miền Trung và Tây Nguyên có 3.315 KSTSR, trong đó: 2.103 ca P. falciparum chiếm 63,44%; 1.181 ca P. vivax chiếm 35,63%; 7 ca P. malariae chiếm 0,21%, 24 KST phối hợp chiếm 0,72%.

Khu vực miền Nam có 1.394 ca KSTSR, trong đó có 802 ca P. falciparum chiếm 57,53%; 532 ca P. vivax chiếm 38,16%, 2 ca P. malariae chiếm 0,14%, 58 ca nhiễm phối hợp chiếm 4,16%. Tỷ lệ P. falciparum cao (58-63%) ở tất cả khu vực, do một số yếu tố như việc quản lý bệnh nhân trên các đối tượng di biến động gặp khó khăn và sốt rét kháng thuốc việc điều trị gặp khó khăn vì hiện chưa có thuốc thay thế.

Diễn biến KSTSR năm 2018: KSTSR tăng vào tháng 2 (465 ca) sau đó giảm dần đến tháng 6 (195 ca) giống chu kỳ năm 2017. KSTSR những tháng cuối năm tăng đến tháng 11 (645 ca), tuy nhiên giảm mạnh vào tháng 12, đây là diễn biến khác biệt so với những năm trước đây. KSTSR năm 2018 ở mức cao hơn so với 2017. Số KSTSR trung bình các tháng năm 2018 thấp hơn các tháng giai đoạn 2013-2017. Diễn biến khác biệt: tăng cao ở tháng 2 và giảm thấp ở tháng 12 so với giai đoạn 5 năm trước 2013-2017.

Bảng 1.3. Phân bố ký sinh trùng sốt rét nội địa theo khu vực

TT

Khu vực

KSTSR

Nội địa

Tỷ lệ (%)

1

Miền núi phía Bắc

24

18

75

2

Đồng bằng trung du Bắc Bộ

19

0

0

3

Khu IV cũ

61

0

0

4

Ven biển miền Trung

919

331

36

5

Tây Nguyên

2.396

1685

70,3

6

Đông Nam Bộ

1.355

1089

80,4

7

Đồng bằng Sông Cửu Long

39

9

23,1

 

Toàn quốc

4.813

3.132

65,10

 

KSTSR chủ yếu là tại nội địa với 3.132 ca chiếm 65% trong tổng số KSTSR toàn quốc. Khu vực miền Trung có tỷ lệ lây truyền tại chỗ thấp chỉ 36%. Khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có tỷ lệ cao 70-80% ca KSTSR lây truyền tại chỗ.

Toàn quốc ghi nhận 4.813 ca có KSTSR, trong đó có 392 ca ngoại lai từ châu Phi, Lào và Campuchia, chiếm 8,15% trong tổng số KSTSR toàn quốc. Các tỉnh có KSTSR ngoại lai như Bình Phước (212 ca), Gia Lai (197 ca), Quảng Bình (69 ca), Đăk Lăk (51 ca), Quảng Trị (43 ca). KSTSR ngoại lai từ nước ngoài chủ yếu từ Angola (Châu Phi), Lào và Campuchia.

KSTSR ngoại lai từ Châu Phi năm 2018 có 43 ca, phân bố ở các tỉnh, thành Hà Nội (14 ca), Nghệ An (12 ca), Hà Tĩnh (9 ca), Thái Nguyên (2 ca), Quảng Ninh (2 ca), Bắc Ninh (2 ca), Thanh Hóa (1 ca), Tiền Giang (1 ca). KSTSR ngoại lai từ Lào: 104 ca, phân bố ở các tỉnh: Quảng Bình (40 ca), Quảng Trị (37 ca), Nghệ An (5 ca), Hà Tĩnh (4 ca), Thừa Thiên-Huế (8 ca), Kon Tum (3 ca), TP. Đà Nẵng (1 ca), An Giang (1 ca). KSTSR ngoại lai từ Campuchia 245 ca, phân bố ở các tỉnh: Bình Phước (197 ca), Tây Ninh (12 ca), Gia Lai (7 ca), Hà Tĩnh (7 ca), Đăk Lăk (5 ca), Quảng Bình (3 ca), Nghệ An (3 ca), TP. Đà Nẵng (2 ca), Vĩnh Long (2 ca), Thanh Hóa (1 ca), Đồng Tháp (1 ca).

Bảng 1.4. Các tỉnh có ký sinh trùng sốt rét ngoại lai năm 2018

TT

Tỉnh

Tổng KSTSR

KST ngoại lai

Châu Phi

Lào

Campuchia

Trong nước

1

Bình Phước

1.243

212

0

0

197

15

2

Gia Lai

1.101

197

0

0

8

189

3

Quảng Bình

95

69

0

40

3

26

4

Đắk Lắk

768

51

0

0

5

46

5

Quảng Trị

93

43

0

37

0

6

6

Nghệ An

26

26

12

5

3

6

7

Hà Tĩnh

26

26

9

4

7

6

8

Hà Nội

16

16

14

0

0

2

9

Tây Ninh

42

14

0

0

12

2

10

Thừa T Huế

15

11

0

8

0

1

11

Thanh Hoá

9

9

1

1

1

6

12

Kon Tum

134

7

0

3

0

4

 

Tổng

3.568

681

36

98

236

309

 

Diễn biến sốt rét toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng có thể thay đổ hàng năm về diện mạo ca bệnh, ký sinh trùng sốt rét, người lành mang ký sinh trùng không có triệu chứng như một ổ chứa tiềm tàng và nguy hiểm trong cộng đồng nếu chúng ta không đánh giá một cách triệt để bài bản thì khó có thể loại trừ ổ chứa như thế và cứi thế tiếp tục lan truyền bệnh sốt rét trong cộng đồng. Ngoài ra, kháng thuốc và kháng hóa chất do KSTSR và muỗi sốt rét cũng như biện pháp và phương cách khó kiểm soát các nhóm dân có nguy cơ cao mắc sốt rét như nhóm dân di biến động, giao lưu biên giới, đi rừng, ngủ rẫy và ở lại dài ngày trong khu vực rừng có lưu hành sốt rét, đây có thể tiếp tục là rào cản

 

 

 


 


Thăm dò ý kiến