Các phương pháp điều trị u tế bào hắc tố
02/07/2015 | 01:11 AM



U hắc tố có thể được chữa khỏi nếu được chẩn đoán và điều trị khi khối u còn nông và vẫn chưa xâm lấn sâu vào da. Tuy nhiên, nếu u hắc tố không được cắt bỏ ở giai đoạn sớm, tế bào ung thư có thể phát triển từ bề mặt da sâu xuống dưới, xâm lấn vào mô lành. Khi u hắc tố trở nên dày và sâu, bệnh thường lan sang các bộ phận khác của cơ thể và khó kiểm soát.
Nếu bác sĩ nghi nốt trên da là u hắc tố thì bệnh nhân sẽ cần được tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất để đưa ra chẩn đoán chắc chắn. Trong khi thực hiện sinh thiết bác sĩ cố gắng cắt bỏ toàn bộ nốt nghi ngờ này.
Đôi khi, cần phải lấy hạch lân cận để quan sát dưới kính hiển vi (phẫu thuật này cũng được coi là một phần của điều trị vì có thể giúp kiểm soát được bệnh). Bác sĩ cũng phải thăm khám kỹ lưỡng và tuỳ thuộc vào độ dày của khối u có thể yêu cầu chụp X quang lồng ngực; xét nghiệm máu; chụp cắt lớp vi tính gan, xương và não.
Phẫu thuật
Phẫu thuật để cắt bỏ u hắc tố là phương pháp điều trị chuẩn cho loại ung thư này. Cần phải cắt bỏ không chỉ có khối u mà còn phải cắt cả một phần mô lành xung quanh nó để giảm khả năng tế bào ung thư còn sót lại trong vùng đó xuống mức thấp nhất.
Độ rộng và chiều sâu của lớp da xung quanh cần phải cắt bỏ phụ thuộc vào độ dày của u hắc tố và độ sâu u xâm nhập vào da. Trong những trường hợp u rất nhỏ và có thể cắt bỏ tất cả mô ung thư trong quá trình sinh thiết, thì không cần tiến hành phẫu thuật nữa. Nếu không thể cắt bỏ toàn bộ u hắc tố trong quá trình tiến hành sinh thiết thì bác sĩ sẽ cắt bỏ mô ung thư còn sót lại khi tiến hành phẫu thuật.
Nếu cắt bỏ một mảng mô lớn thì có thể phải tiến hành ghép da đồng thời. Trong quá trình này bác sĩ lấy da ở bộ phận khác của cơ thể để thay thế cho lớp da đã được cắt bỏ, hạch bạch huyết ở gần khối u cũng có thể được cắt bỏ trong khi phẫu thuật bởi vì ung thư có thể lan vào hệ bạch huyết. Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh tìm thấy tế bào ung thư trong hạch điều đó có nghĩa là bệnh đã di căn sang các bộ phận khác của cơ thể.
Hóa trị liệu
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Nói chung, đây là phương pháp điều trị toàn thân, có nghĩa là nó có thể ảnh hưởng tới các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Trong hóa trị liệu, một hoặc nhiều thuốc điều trị ung thư được đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm vào mạch máu. Cho dù thuốc được đưa vào cơ thể bằng con đường nào thì nó cũng đi vào mạch máu và tuần hoàn trên toàn cơ thể.
Hóa trị liệu thường được điều trị theo đợt: một đợt điều trị sau đó là một thời gian nghỉ hồi sức, sau đó là một đợt điều trị khác và cứ tiếp tục như vậy. Bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất thường là bệnh nhân ngoại trú (ở bệnh viện, ở văn phòng bác sĩ hoặc ở nhà). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc điều trị và tình trạng sức khỏe chung bệnh nhân có thể phải nằm viện trong một thời gian ngắn.
Một cách đưa thuốc vào cơ thể hiện đang được nghiên cứu được gọi là truyền thuốc vào chi. Nó đang được thử nghiệm đối với u hắc tố chỉ xuất hiện ở một tay hoặc một chân. Khi tiến hành truyền thuốc vào chi, người ta dùng garô để ngăn dòng máu tới chi và rời khỏi chi trong một khoảng thời gian.
Sau đó thuốc điều trị ung thư được truyền vào mạch máu ở chi. Bệnh nhân tiếp nhận liều thuốc cao trực tiếp vào vùng có u hắc tố. Vì hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư chỉ lưu hành ở một chi nên phương pháp này không hẳn là một phương pháp điều trị toàn thân.
Liệu pháp sinh học
Liệu pháp sinh học (còn gọi là liệu pháp miễn dịch) là một phương pháp điều trị bảng hệ thống miễn dịch của cơ thể, dù là trực tiếp hay gián tiếp, nhằm chống lại ung thư hoặc làm giảm tác dụng phụ do việc điều trị ung thư gây ra. Liệu pháp sinh học cũng là một phương pháp điều trị toàn thân và liên quan tới việc sử dụng các chất được gọi là chất điều biến đáp ứng sinh học.
Cơ thể thường sản xuất ra một lượng nhỏ những chất này khi có nhiễm khuẩn và bệnh tật. Nhờ vào các kỹ thuật trong phòng thí nghiệm hiện đại, các nhà khoa học có thể sản xuất ra một lượng lớn các chất điều biến đáp ứng sinh học để sử dụng trong điều trị ung thư.
Trong một số trường hợp, liệu pháp sinh học có thể được sử dụng sau khi phẫu thuật để ngăn ngừa u hắc tố tái phát. Đối với bệnh nhân có u hắc tố đã di căn hoặc có nguy cơ tái phát bệnh cao bác sĩ có thể chỉ định interferon-alfa và interleukin-2 (còn được gọi là aldesleukin) sau phẫu thuật. Các loại thuốc kích thích dòng tế bào (CSF) và các loại vaccin chống ung thư là những ví dụ của các chất điều biến đáp ứng sinh học hiện đang được nghiên cứu.
Tia xạ
Trong một số trường hợp, tia phóng xạ được sử dụng để làm giảm triệu chứng của u hắc tố. Xạ trị là phương pháp sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư.
Đây là phương pháp điều trị tại chỗ; nó chỉ ảnh hưởng tới tế bào trong vùng chiếu xạ. Xạ trị là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để kiểm soát ung thư đã di căn vào não, xương và các bộ phận khác của cơ thể./.
Tin liên quan
- Việt Nam nhất quán thúc đẩy di cư quốc tế hợp pháp, an toàn
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương tri ân các đối tác đã đồng hành trong chặng đường phát triển Bệnh viện
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch mới nhất
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương chào đón công dân nhí đầu tiên năm 2025
- Khánh thành hệ thống tự động hoàn toàn cho phòng xét nghiệm tại Việt Nam
- Xanh - sạch - đẹp ở Bệnh viện Phổi Thanh Hóa
- Trao giải cuộc thi “Cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp” lần thứ nhất năm 2024