Điểm tin dân số tháng 4
12/04/2019 | 14:30 PM



1. 5 đột phá quan trọng trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019
Thực hiện Tổng điều tra trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (TĐT 2019) đã được thiết kế với 5 đổi mới quan trọng mang tính đột phá.
Thực hiện theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc
Ông Phạm Quang Vinh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Trung ương cho biết, từ sau cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở đầu tiên năm 1979, Việt Nam đã tiến hành ba cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở vào các năm 1989, 1999 và 2009 nhằm cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình dân số, nhân khẩu học và nhà ở trên phạm vi toàn quốc.
Các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở tại Việt Nam được thực hiện theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc về phương pháp luận nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của quốc gia, phục vụ mục đích so sánh quốc tế và tổng hợp dữ liệu toàn cầu. Qua mỗi chu kỳ, Tổng điều tra dân số và nhà ở đều có những bước đổi mới, cải tiến cho phù hợp và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng tin trong nước và quốc tế.
Trong cuộc Tổng điều tra đầu tiên năm 1989, Việt Nam áp dụng các khái niệm, định nghĩa, phương pháp thiết kế và quy trình xử lý số liệu hiện đại được quốc tế thừa nhận. Đến năm 1999, Tổng điều tra đã bổ sung một số nội dung nghiên cứu nhằm thu được nguồn số liệu toàn diện về kinh tế - xã hội và nhân khẩu học của Việt Nam. Năm 2009, Tổng điều tra dân số và nhà ở tiếp tục được thiết kế với hai chiến lược mới, đó là sử dụng cỡ mẫu 15% để mở rộng nội dung điều tra nhằm biên soạn một số chỉ tiêu cơ bản đại diện đến cấp huyện và áp dụng công nghệ nhận biết ký tự thông minh để nhập tin phiếu điều tra, qua đó nâng cao mức độ chính xác và rút ngắn thời gian xử lý số liệu.
5 đổi mới quan trọng mang tính đột phá
Thực hiện Tổng điều tra trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, nguồn ngân sách nhà nước hạn chế, nguồn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế dần cắt giảm, trong khi nhu cầu thông tin về dân số ngày càng cao, TĐT 2019 được thiết kế với 5 đổi mới quan trọng mang tính đột phá.
Thứ nhất, ứng dụng CNTT trong tất cả các công đoạn của TĐT.
So với năm 2009, TĐT 2019 đã cải tiến cả và phương pháp và hình thức thu thập thông tin.
Trước hết về phương pháp thu thập thông tin, nếu như TĐT 2009 chỉ sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp (điều tra viên thống kê phỏng vấn trực tiếp đối tượng điều tra và ghi chép thông tin), TĐT 2019 áp dụng cả hai phương pháp là điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp (hộ dân cư tự cung cấp thông tin về dân số và nhà ở thông qua phiếu điều tra trực tuyến).
Về hình thức thu thập thông tin, ngoài việc sử dụng hình thức phiếu giấy in sẵn như năm 2009, TĐT 2019 áp dụng thêm hai hình thức thu thập thông tin mới: Điều tra bằng phiếu điện tử trên thiết bị di động (còn gọi là CAPI) và điều tra bằng phiếu trực tuyến sử dụng internet (còn gọi là Webform).
Do thay đổi về phương pháp và hình thức thu thập thông tin, nhiều công đoạn khác của TĐT cũng đã được thay đổi theo hướng ứng dụng CNTT bao gồm: Lưu trữ và sử dụng sơ đồ nền xã/phường, lập danh sách thôn/tổ dân phố và địa bàn điều tra, lập và cập nhật Bảng kê hộ, chọn mẫu hộ, nhắn tin và gửi thư điện tử (email) đến các hộ đăng ký thực hiện Webform, kiểm tra và duyệt số liệu trực tuyến.
Theo lãnh đạo Tổng cục Thống kê, việc cải tiến này đem lại những lợi ích thiết thực trong nâng cao chất lượng số liệu, tăng tính minh bạch và chặt chẽ của quy trình sản xuất thông tin thống kê, rút ngắn thời gian công bố kết quả TĐT, giảm kinh phí điều tra trong dài hạn và phù hợp với xu hướng tổ chức điều tra của thế giới.
Thứ hai, áp dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng hai giai đoạn nhằm bảo đảm tính đại diện cấp huyện và tiết kiệm chi phí.
Bên cạnh điều tra toàn bộ nhằm thu thập thông tin cơ bản về tình hình dân số và nhà ở của dân cư, TĐT 2019 sẽ thu thập thông tin chuyên sâu về dân số, nhân khẩu học và nhà ở thông qua điều tra mẫu nhằm bảo đảm tính đại diện của các chỉ tiêu đến cấp huyện, đồng thời giảm tải khối lượng công việc và tiết kiệm chi phí TĐT.
Cụ thể, TĐT 2019 áp dụng phương pháp phân tầng hai giai đoạn. Trong đó, bước 1: Phân bổ và chọn mẫu phân tầng theo huyện; trong mỗi huyện, các địa bàn điều tra mẫu được chọn theo phương pháp xác suất tỷ lệ với quy mô; bước 2: Trong từng địa bàn điều tra mẫu, các hộ mẫu được chọn ngẫu nhiên hệ thống theo khoảng cách. Theo đó, số lượng địa bàn mẫu là khoảng 40% tổng số địa bàn và quy mô mẫu chiếm khoảng 9% tổng số hộ trên cả nước.
Thứ ba, lồng ghép thông tin đáp ứng các chỉ tiêu phát triển bền vững.
Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) là mục tiêu phổ quát được thiết kế nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và bảo đảm rằng tất cả mọi người được hưởng hòa bình, thịnh vượng vào năm 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc. Ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể tương ứng với các mục phát triển bền vững toàn cầu được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào tháng 9/2015.
Để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ giám sát các Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, ngoài thông tin cơ bản về tình hình dân số, nhân khẩu học và nhà ở, một số thông tin phục vụ đánh giá thực hiện các chỉ tiêu SDGs đã được thiết kế để thu hập trong TĐT 2019. Thực tế TĐT 2019 sẽ cung cấp thông tin phục vụ tính toán và đánh giá khoảng 10% các chỉ tiêu SDGs của Việt Nam.
Thứ tư, cải tiến quy trình vẽ sơ đồ nền xã/phường và phân chia địa bàn điều tra để giảm kinh phí thực hiện TĐT.
Địa bàn điều tra sử dụng trong công tác thống kê là khu vực địa lý nơi có dân cư sinh sống, có ranh giới rõ ràng hoặc tương đối rõ ràng. Về cơ bản, địa bàn điều tra là các thôn, buôn, xóm, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, tiểu khu.
TĐT 2019 quy định mỗi địa bàn điều tra có quy mô trung bình khoảng 120 hộ dân cư. Mỗi xã/ phường gồm nhiều địa bàn điều tra và ranh giới các địa bàn điều tra ghép lại sẽ thành bản đồ của xã/ phường đó.
Theo phương pháp luận quốc tế, sơ đồ sử dụng trong TĐT gồm sơ đồ nền xã/phường và sơ đồ chi tiết đến từng ngôi nhà/đơn vị nhà ở (sơ đồ chi tiết địa bàn điều tra) nhằm bảo đảm không tính trùng hoặc bỏ sót dân số trong quá trình điều tra thực địa. Các cuộc TĐT trước đây đã thực hiện vẽ sơ đồ chi tiết địa bàn điều tra. Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn kinh phí TĐT 2019 hạn chế nhiều hơn so với các cuộc TĐT trước, công tác vẽ sơ đồ đã được nghiên cứu và điều chỉnh theo hướng chỉ thực hiện vẽ sơ đồ nền xã/phường nhưng vẫn thể hiện rõ ranh giới giữa các địa bàn điều tra, các vật định hướng nhằm phục vụ công tác thu thập thông tin. Việc không thực hiện vẽ sơ đồ chi tiết địa bàn điều tra đã tiết kiệm NSNN ước tính khoảng 100 tỷ đồng.
Thứ 5, TĐT 2019 là căn cứ để đề xuất tiến tới không thực hiện TĐT 2019.
TĐT là nguồn thông tin chủ yếu và tin cậy về tình hình dân số, nhân khẩu học và tình trạng nhà ở của dân cư nhằm đáp ứng các mục tiêu về tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia đã được luật định, đồng thời cũng là nguồn thông tin phục vụ Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong đánh giá tình hình, xây dựng chiến lược, chính sách liên quan tới người dân và các chính sách phát triển đất nước.
Hiện nay thông tin về dân số từ TĐT chỉ được cung cấp 10 năm một lần. Trong khi đó, tại Việt Nam hiện có nhiều nguồn dữ liệu sẵn có liên quan đến dân số như dữ liệu từ hệ thống thống kê hộ tịch của Bộ Tư pháp, hệ thống thống kê hành chính của ngành công an, y tế; tuy nhiên, dữ liệu từ các nguồn này hầu như chưa đáp ứng yêu cầu về tổng hợp dữ liệu dân số do một số lý do như: Thông tin thu thập không đủ chi tiết; mỗi hệ thống thông tin sử dụng các quy ước và khái niệm về dân số khác nhau; cơ chế chia sẻ thông tin giữa hầu hết các cơ quan, bộ ngành có liên qua với Tổng cục Thống kê chưa được thiết lập một cách hiệu quả.
Do đó, nhằm cải thiện tính kịp thời của thông tin về dân số cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng dữ liệu sẵn có, giảm gánh nặng tài chính cho NSNN và tận dụng tối đa các lợi thế của CNTT, TĐT 2019 được kỳ vọng sẽ là căn cứ để cập nhật đầy đủ thông tin về dân số, từ đó đề xuất nâng cao chất lượng thông tin của hệ thống báo cáo hành chính để tiến tới khong thực hiện TĐT 2019.
Theo Chinhphu.vn (1854)
2. Tổng điều tra dân số, nhà ở: Lợi ích ‘sát sườn’ với mỗi người dân
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là hoạt động có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng sát sườn tới đời sống của từng người dân, từng gia đình trong thời gian tới.
Tất cả người dân đều được tính đến để không ai bị bỏ lại phía sau
Nhận định về tình hình biến động dân số và nhà ở toàn quốc trong 10 năm qua, ông Nguyễn Văn Tân, nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cho rằng: Cuộc sống luôn biến động và công tác dân số cũng như vậy. So với Tổng điều tra dân số năm 2009 (TĐT 2009), 10 năm trôi qua với sự phát triển rất nhanh của KTXH đất nước, dân số nước ta cũng thay đổi rất nhiều cả về số lượng, cơ cấu, cả về phân bổ… Chính vì vậy, việc tiến hành TĐT 2019 có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối công tác dân số nói chung, mà còn tác động tới lợi ích sát sườn của người dân.
Ông Nguyễn Văn Tân cho rằng: Việc Tổng điều tra dân số và nhà ở vừa là hoạt động mang tính vĩ mô, vừa liên quan đến lợi ích của từng người dân cụ thể.
Dẫn thông điệp của Liên Hợp Quốc là “Tất cả mọi người đều được tính đến”, ông Nguyễn Văn Tân nhấn mạnh rằng: Cuộc TĐT của chúng ta như là một cơ hội để “Tất cả mọi người dân đều được tính đến như là một chủ thể của sự phát triển KTXH đồng thời cũng là một người được hưởng lợi từ thành quả của sự phát triển KTXH của đất nước, để cho không ai bị bỏ lại phía sau”.
Ông Tân lý giải, có TĐT chúng ta mới đánh giá được diễn biến dân số trong thời gian qua, qua đó xác định chúng ta có thực hiện đúng chiến lược dân số hay không. Kết quả này không chỉ giúp chúng ta giám sát quá trình thực hiện, mà còn giúp chúng ta dự báo được sự phát triển dân số trong những năm tới. Trên cơ sở đó để hoạch định chính sách phát triển dân số nói chung và xây dựng những chính sách cụ thể tác động đến từng người dân.
Lấy ví dụ cụ thể về vấn đề mức sinh, ông Tân nêu vấn đề “chúng ta sẽ điều chỉnh mức sinh như thế nào? Và cho biết, về chính sách, trước đây chúng ta siết khá chặt nhằm giảm mức sinh. Nhưng vừa rồi (theo Nghị quyết 21 năm 2017) Đảng đã khẳng định là duy trì mức sinh thay thế. Như vậy những quy định về hạn chế mức sinh chắc chắn sẽ phải thay đổi và điều này sẽ tác động tới từng gia đình, từng cặp vợ chồng, từng người dân cụ thể.
Bày tỏ đồng tình với ý kiến của ông Nguyễn Văn Tân, TS. Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 nhấn mạnh thêm rằng: Cuộc TĐT 2019 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đánh giá chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2011-2020 và đánh giá kết quả thực hiện các kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 5 năm, đồng thời cũng là căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển KTXH của giai đoạn tới (2021-2030), đặc biệt là xây dựng kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 2021-2025.
Kết quả TĐT 2019 cũng là căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Trung ương về công tác dân số trong tình hình mới, trong đó có những chỉ tiêu như: Làm thế nào để giữ được mức sinh tự nhiên, mức sinh thay thế; hay giảm mức sinh chênh lệnh giữa thành thị với nông thôn, giữa vùng núi với vùng đồng bằng.
Bên cạnh đó, kết quả cuộc TĐT này còn liên quan tới việc đánh giá kết quả thực hiện những chỉ tiêu mà chúng ta đã cam kết với Liên Hợp Quốc về sự phát triển bền vững. Bởi nếu chúng ta thực hiện tốt các chỉ tiêu về phát triển bền vững sẽ tác động tới cuộc sống của từng người dân. Ví như chỉ tiêu mà chúng ta đã cam kết là: Tất cả mọi người đều được hưởng hạnh phúc, đều được hưởng hòa bình, không ai bị đói nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau… Cho nên thông tin của cuộc TĐT 2019 có ý nghĩa hết sức quan trọng cả ở tầm vĩ mô, cả ở tầm vi mô với từng người dân, từng gia đình.
Cuộc TĐT lớn nhất từ trước đến nay
Thông tin thêm về công tác chuẩn bị TĐT 2019, ông Nguyễn Bích Lâm cho biết, đây là cuộc Tổng điều tra lớn nhất từ trước đến nay.
Theo ông, ngành thống kê có 3 loại tổng điều tra (gổm Tổng điều tra kinh tế; Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp thủy sản; Tổng điều tra dân số), trong đó, Tổng điều tra dân số được thực hiện 10 năm 1 lần. Cuộc tổng điều tra dân số lần này là cuộc tổng điều tra lớn nhất so với những lần tổng điều tra trước đây cả về mặt quy mô lẫn ứng dụng phương pháp thực hiện.
Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, Tổng cục Thống kê đã chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo cho cuộc Tổng điều tra dân số nhà ở 2019, đặc biệt là trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019.
Cụ thể, về cơ cấu tổ chức, đã thành lập Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 từ cấp Trung ương tới cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã để chỉ đạo thành công cuộc tổng điều tra này. Trong đó, Ban Chỉ đạo Trung ương do Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ làm Trưởng ban.
Thứ hai, Tổng cục xác định phương pháp luận theo các chuẩn quốc tế để áp dụng vào cuộc tổng điều tra lần này.
Thứ ba là xác định cách chọn mẫu để vừa đảm bảo suy rộng được kết quả của các chỉ tiêu, đồng thời phù hợp với mức kinh phí dành cho tổng điều tra.
Thứ tư, là cài đặt những thông tin để tính toán, đánh giá các chỉ tiêu để phục vụ cho việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược, thực hiện các cam kết của Việt Nam.
Đặc biệt, là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào tổng điều tra dân số và nhà ở nhằm nâng cao chất lượng thông tin.
Theo Chinhphu.vn (1168)
3. 10 sự thật bất ngờ về các biện pháp tránh thai
Hãy đọc thử những điều dưới đây để khám phá thêm nhiều sự thật thú vị về các biện pháp tránh thai nhé!
1. Vào những năm 1950 và 1960, phụ nữ đã sử dụng Coca Cola để thụt rửa âm đạo như là một biện pháp tránh thai vì tin rằng acid carbonic có trong Coca Cola có thể diệt được tinh trùng.
2. Trứng có thể tồn tại trong ống dẫn trứng của người phụ nữ 24 giờ sau khi rụng. Còn tinh trùng có thể sống trong âm đạo người phụ nữ từ 3-5 ngày. Do đó, nếu muốn chủ động tránh thai bằng biện pháp tính ngày an toàn, bạn sẽ phải tránh quan hệ tình dục trong 5 ngày trước khi rụng trứng, ngày rụng trứng và cả 3 ngày sau khi rụng trứng.
3. Xuất tinh ngoài chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 73% và nhiều chuyên gia y học thậm chí không công nhận đây là một biện pháp tránh thai.
4. Cọ rửa âm đạo sau khi quan hệ tình dục không phải là một biện pháp tránh thai an toàn. Ngược lại, bất kì chất lỏng nào tiếp xúc với âm đạo còn có thể khiến tinh trùng đi vào sâu hơn và dễ thụ tinh với trứng hơn.
5. Thuốc viên tránh thai được đánh giá là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới hiện đại vì nó giúp thúc đẩy cuộc cách mạng bình đẳng giới mang tầm quốc tế và giúp nâng cao vai trò của người phụ nữ trong môi trường công sở.
6. Tại các nước đang phát triển, việc chủ động tránh thai đã giúp làm giảm tỉ lệ phụ nữ tử vong khi mang thai khoảng 40%. Nếu việc tránh thai được thực hiện đúng cách có thể làm giảm tỉ lệ này đến 70%.
7. Trong quá khứ, việc dùng thuốc viên tránh thai nhiều năm liên tục có thể khiến phụ nữ vô sinh. Tuy nhiên, điều này đã được chứng minh là sai.
8. Nhiều bác sĩ cũng từng cho rằng phụ nữ có thai ngay sau khi ngưng sử dụng thuốc viên tránh thai sẽ có khả năng sảy thai cao hơn bình thường. Điều này cũng đã được chứng minh là không có cơ sở.
9. Chủ động tránh thai giúp kéo dài khoảng cách giữa các lần mang thai. Nhờ đó, cũng làm giảm các nguy cơ khi sinh và tỉ lê tử vong của trẻ sơ sinh.
10. Cung cấp các biện pháp tránh thai an toàn cho phụ nữ của các nước đang phát triển sẽ có thể ngăn chặn hơn 54 triệu trường hợp mang thai ngoài ý muốn, 26 triệu ca nạo phá thai và 7 triệu ca sảy thai. (479)
4. Tổng cục DS-KHHGĐ gửi công văn đến các Chi cục Dân số về việc có người mạo danh Tổng cục để bán sách
Tổng cục DS-KHHGĐ nhận thấy đây là hành vi mạo danh cán bộ Tổng cục và có dấu hiệu lừa đảo, trục lợi.
Ngày 1/4, Tổng cục DS-KHHGĐ đã có công văn số 151/TCDS-VP gửi Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, thành phố về việc có người mạo danh cán bộ Tổng cục DS-KHHGĐ bán sách cho Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, thành phố.
Công văn nêu rõ, gần đây, Tổng cục nhận được phản ánh của một số Chi cục Dân số về tình trạng có người xưng danh tên Trang, công tác tại Văn Phòng Tổng cục dùng nhiều số điện thoại khác nhau liên hệ với Chi cục Dân số các tỉnh, thành phố để bán sách về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hệ thống tổ chức bộ máy tại địa phương với giá 700.000 đồng/bộ.
Trước tình hình trên, Tổng cục DS-KHHGĐ nhận thấy đây là hành vi mạo danh cán bộ Tổng cục và có dấu hiệu lừa đảo, trục lợi.
“Tổng cục DS-KHHGĐ khẳng định không bán sách và cũng không giao cho bất kỳ cán bộ nào thực hiện việc liên hệ các tỉnh, thành phố để bán sách dưới hình thức như một số Chi cục DS-KHHGĐ đã phản ánh”, công văn nhấn mạnh.
Công văn Tổng cục DS-KHHGĐ gửi Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, thành phố về việc có người mạo danh Tổng cục để bán sáchCông văn Tổng cục DS-KHHGĐ gửi Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, thành phố về việc có người mạo danh Tổng cục để bán sách
Do vậy, Tổng cục DS-KHHGĐ thông báo để Chi cục Dân số các tỉnh, thành phố được biết. Nếu Chi cục các tỉnh, thành phố có thông tin liên quan đến việc bán sách của đối tượng này, xin cung cấp thông tin cho Tổng cục Dân số để Tổng cục tổng hợp, báo cáo cơ quan chức năng.
Trao đổi với PV Báo Gia đình và Xã hội, ông Nguyễn Văn Tính, Chánh Văn phòng Tổng cục DS-KHHGĐ, người trực tiếp nhận được phản ánh từ các địa phương, xác nhận sự việc trên.
Theo ông Nguyễn Văn Tính, gần đây, một số Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ như Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Cần Thơ… đã nhận được cuộc gọi từ một số điện thoại lạ tự xưng tên Trang làm ở Văn phòng Tổng cục.
Sau khi giới thiệu, người này đã “chào mời” các vị lãnh đạo mua bộ sách hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hệ thống tổ chức bộ máy tại địa phương với giá 700.000 đồng/bộ. Để tạo niềm tin, người này còn cam kết, hình thức “mua bán” là sẽ giao qua bưu điện và thanh toán tiền khi nhận được sách.
Trước tình hình trên, có Chi cục "bán tín bán nghi" và gọi điện cho ông Tính để xác minh. Tuy nhiên, cũng có Chi cục tin lời người phụ nữ này và đồng ý đặt mua sách. Theo Chánh Văn phòng Tổng cục DS-KHHGĐ, hiện tại, đã có Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Bình Dương nhận được sách qua bưu điện.
Thế nhưng, khi nhận hàng từ bưu điện, cán bộ Chi cục này không được xem hàng bên trong. Đến khi trả tiền và mở hộp giấy mới phát hiện, thực chất, những quyển sách này không hề liên quan gì đến dân số cũng như việc hướng dẫn về công tác dân số ở địa phương như đã quảng cáo trước đó.
Ở một diễn biến liên quan, chị Lê Huyền Trang, chuyên viên Văn phòng Tổng cục DS-KHHGĐ – người bị mạo danh để tiếp thị bán sách cho các Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, thành phố cho biết, chị rất sốc khi biết thông tin này. Mong các cơ quan chức năng sớm điều tra làm rõ vụ việc.(671)
5. Nghịch lý đáng báo động về dân số và sức khỏe của người Việt
Có một điều đáng mừng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đang tăng, nhưng cũng có nghịch lý là người Việt đang phải đối mặt với sự gia tăng ngày càng trầm trọng của các bệnh không lây nhiễm.
Tuổi thọ cao nhưng số năm bệnh tật nhiều
Trong chương trình Sức khỏe Việt Nam TS. Trương Đình Bắc - Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng đã đưa ra 5 vấn đề bất cập về sức khỏe của người Việt.
Theo đó, ông Bắc cho biết người dân Việt Nam có tuổi thọ tương đối cao so với các quốc gia có cùng mức sống. Số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, trong 10 quốc gia Đông Nam Á, tuổi thọ nam giới Việt Nam đứng thứ 5 và tuổi thọ phụ nữ Việt Nam đứng thứ 2.
"Nhưng lại có số năm sống với bệnh tật nhiều. Trung bình mỗi người Việt có tới 10 năm phải sống với bệnh tật, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống và làm giảm số năm sống khỏe mạnh", ông Bắc nói.
26 năm chiều cao tăng chỉ 3cm
Theo ông Bắc, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu việc giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ, trẻ em. Nhưng tầm vóc, thể lực của người dân vẫn không thay đổi nhiều.
Sau 26 năm, từ năm 1993 đến nay chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam chỉ tăng thêm được 3 cm, với 164 cm ở nam và 153 cm ở nữ. So với các nước trong khu vực chiều cao trung bình cùng nhóm tuổi của đa số các nước trong khu vực châu Á rất thấp.
Bệnh không lây nhiễm tăng
Người Việt đang phải đối mặt với sự gia tăng ngày càng trầm trọng của các bệnh không lây nhiễm (tim mạch, ung thư, đái tháo đường, phổi tắc nghẽn).
Gánh nặng của các bệnh này đang chiếm tới trên 2/3 tổng gánh nặng bệnh tật và tử vong toàn quốc và các bệnh này là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong.
"Hiện nay, nước ta có khoảng 12 triệu người mắc tăng huyết áp, gần 3 triệu người bị bệnh đái tháo đường, trên 2 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản và mỗi năm có khoảng 125.000 ca mắc mới ung thư", ông Bắc cho biết.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, năm 2012 cả nước có khoảng 520.000 ca tử vong các loại trong đó 73% là tử vong là do bệnh không lây nhiễm, tức là cứ 10 người chết thì có 7 người chết do các bệnh không lây nhiễm.
Tỷ lệ tử vong chủ yếu là các bệnh tim mạch (33%), ung thư (18%), đái tháo đường (3%) và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (7%).
Ít vận động thể lực
Ông Bắc cho hay, các bệnh không lây nhiễm tăng ở người Việt là do tăng các thói quen xấu như, hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, dinh dưỡng không hợp lý và thiếu vận động thể lực. Gây ra tình trạng thừa cân béo phì, tăng huyết áp, rối loạn đường máu và mỡ máu.
Theo số liệu điều tra năm 2015, tỷ lệ hút thuốc lá ở nam giới mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn chiếm 45,3%. Trong khi đó, vẫn có tới 77% nam giới uống rượu, bia và gần một nửa uống ở mức nguy hại.
"Trong ăn uống, hơn một nửa người trưởng thành ăn thiếu rau, trái cây. Người Việt đang ăn muối nhiều gấp hai lần so với mức khuyến nghị. Khoảng 1/3 dân số hiện nay thiếu hoạt động thể lực", ông Bắc nói. (659)
6. Dân số Việt Nam già nhanh nhất thế giới
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Theo dự kiến, tới năm 2038 tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên của Việt Nam đạt 20,1%.
Từ năm 2012, Việt Nam đã bước vào giai đoạn già khi số người từ 60 tuổi trở lên chiếm đến 10,2% tổng dân.
Năm 2015, trong số các nước Đông Nam Á, người Việt Nam có tuổi kỳ vọng sống sau 60 tuổi khá cao. Nhưng cũng có số năm sống bệnh tật cao.
Nữ giới sau 60 tuổi có kỳ vọng sống là 25 năm nhưng lại có số năm sống với bệnh tật tới 7 năm. Nam giới sau 60 tuổi có kỳ vọng sống là 19 năm và cũng có số năm sống bệnh tật tới trên 5 năm. (147)
7. Dân số tăng nhanh: Bài toán làm "đau đầu" các nhà quản lý
Bên cạnh áp lực về ùn tắc giao thông thì việc gia tăng dân số sẽ tạo thêm những áp lực về y tế, giáo dục, môi trường, văn minh đô thị và đặc biệt là nhà ở.
Mất cân đối giữa mức gia tăng dân số và quy hoạch đất ở, nhà ở
Dân số hiện tại của Việt Nam ước tính trên 97 triệu người, đông dân thứ 14 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Với tổng diện tích đất là 310.060 km2, mật độ dân số của Việt Nam là 313 người/km2 cao nhất trong các nước trong khu vực.
Theo UBND TPHCM, trong 10 năm gần đây, dân số của TPHCM tăng bình quân khoảng 170.000 người, gần bằng dân số của một quận có quy mô nhỏ của thành phố. Theo kết quả tổng hợp sơ bộ, dân số của TP HCM đến thời điểm ngày 23/1/2019 là 8.859.688 người, tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018. Số liệu này chưa tính lực lượng bộ đội và công an ở tại hộ. Như vậy trong thời kỳ 10 năm, từ năm 2009 -2019, tốc độ tăng dân số bình quân của TPHCM là 2,15%/năm. Bình quân một năm thành phố tăng khoảng 170.000 người, gần bằng dân số của một quận có quy mô nhỏ ở thành phố.
Tính đến cuối năm 2018, Hà Nội có khoảng 7,8 triệu người, trong đó, có gần 1,5 triệu người tạm trú. Theo dự báo của Viện Dân số và các vấn đề xã hội, đến năm 2050, dân số Hà Nội có thể lên khoảng 14 triệu người. Với tốc độ tăng trưởng dân số như vậy, Thủ đô đang phải chịu áp lực rất lớn trên mọi lĩnh vực.
Theo Chi cục DS-KHHGĐ Hà Nội, trung bình mỗi năm dân số Thủ đô dự kiến tăng thêm khoảng 200.000 người, tương đương một huyện lớn. Dân số Hà Nội trong 5 năm qua tăng thêm 1,3 triệu người, riêng khu vực nội thành tăng 1,2 triệu, trong đó phần lớn là gia tăng cơ học từ người nhập cư. Nếu không tính người dân các địa phương lân cận về Hà Nội làm ăn theo mùa vụ và người vãng lai, thì mật độ dân số trung bình hiện nay của Hà Nội khoảng trên 2.100 người/km2, khu vực trung tâm có mật độ cao nhất. So với Thủ đô của các nước trong khu vực ASEAN, mật độ trung bình ở mức từ 100 - 200 người/km2, thì mật độ dân số của Hà Nội là quá cao.
Những hệ lụy của gia tăng dân số đang tạo nên những áp lực không nhỏ lên hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, y tế, giáo dục, môi trường, văn minh đô thị và đặc biệt là nhà ở. Khảo sát mới nhất từ Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM cho thấy, giai đoạn 2016 - 2020, 81.000 hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu nhà ở. Trong đó, 10.000 cán bộ, công chức; 39.000 hộ thu nhập nghèo, cận nghèo; 17.000 lao động khu công nghiệp… đang mong có nhà ở.
Theo Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng), hiện nhu cầu nhà ở xã hội ngày càng nhiều, đặc biệt ở TP Hà Nội, nhưng nguồn cung đáp ứng không đủ và vẫn còn thiếu hơn 2,1 triệu m2 sàn nhà ở xã hội. Tại các thành phố có lực lượng lao động trẻ đông, dân nhập cư lớn như Hà Nội, nhu cầu nhà ở rất cao. Đầu năm 2018, số lượng công nhân khu công nghiệp có nhu cầu về chỗ ở khoảng 1,2 triệu người; dự kiến đến năm 2020, sẽ lên tới khoảng 3 triệu người.
Giãn dân và phát triển mạnh nhà ở xã hội
Để giải quyết nhu cầu về nhà ở, nhiều người dân ở cả hai thành phố Hà Nội và TPHCM phải thuê nhà hoặc “nhảy dù” chiếm dụng đất trống làm nhà ở.
Giá nhà tăng cũng một phần do nhập cư quá đông, từ đó số lượng nhà thuê không đủ đáp ứng. Trong đó, ở TPHCM tại các quận 9, Bình Tân và huyện Bình Chánh, Hóc Môn… chỉ trong 10 năm trở lại đây gia tăng dân số một cách chóng mặt.
Ông Huỳnh Lê Công Trường, Phó Chánh Thanh tra Sở Xây dựng TPHCM cho biết: Nơi nào có người dân nhập cư đông là nơi đó nở rộ nhà không phép do người dân làm liều. Hầu như năm nào các huyện vùng ven thành phố cũng xảy ra hàng trăm trường hợp xây dựng không phép.
Để giải quyết phần nào nhu cầu về nhà ở, TPHCM đang triển khai kế hoạch xây dựng 39 dự án nhà ở xã hội với tổng số 44.701 căn hộ và đến năm 2020, có thể xây dựng hoàn thành 20.000 căn. Nếu dựa trên phép tính nói trên thì hiện TPHCM thiếu hụt hàng chục ngàn căn nhà. Hiện ở quận Bình Tân, nơi có số dân nhập cư cao hiện đã ban hành kế hoạch phát triển và quản lý nhà ở xã hội và trình UBND thành phố phê duyệt 8 đồ án quy hoạch trên địa bàn để sớm gỡ khó khăn. Quận này cũng đã chuẩn bị quỹ nhà ở phục vụ tái định cư, đồng thời phát triển, cải tạo loại hình nhà ở cho công nhân thuê, đôn đốc chủ đầu tư xây dựng khu lưu trú ở khu công nghiệp Tân Bình mở rộng.
Còn Hà Nội đang có nhiều phương án để giãn dân trong khu vực nội thành. Theo đó, Hà Nội thực hiện Đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, 5 khu đô thị vệ tinh sẽ hình thành gồm: Sóc Sơn, Xuân Mai, Phú Xuyên, Sơn Tây và Hòa Lạc. Tuy nhiên, 5 khu đô thị này hiện mới chỉ trong giai đoạn lập quy hoạch. Ngoài ra, Hà Nội cũng vừa được Chính phủ đồng ý cho xây dựng thêm khu đô thị vệ tinh Đông Anh theo hướng xây chung cư. Việc triển khai thêm khu đô thị này cũng nhằm giãn dân, giảm tải áp lực nhà ở, giao thông cho khu vực nội đô.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM (HoREA) cho biết, hầu hết các nước trên thế giới, kể cả ở nhiều nước công nghiệp phát triển đều có chính sách và các chương trình phát triển nhà ở xã hội để giải quyết nhu cầu nhà ở cho đối tượng thu nhập thấp, người nhập cư. Phổ biến nhất là hình thức thuê nhà ở xã hội, phần còn lại là nhà ở xã hội thuê mua (thuê dài hạn từ 20-30 năm). Hàn Quốc có 5 loại hình "căn hộ công" cho thuê với từng nhóm đối tượng có thu nhập khác nhau, tỉ lệ đặt tiền thế chân, thời gian thuê khác nhau: 50, 30, 20 năm hay từ 5-10 năm. Theo ông Châu, việc đầu tư xây dựng chuỗi đô thị như vậy sẽ có giá trị lâu dài và giải quyết bài toán nhà ở. (1256)
8. Đồng loạt ra quân Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019
Ngày 1/4 vừa qua, Toàn bộ điều tra viên trên toàn quốc đã chính thức ra quân thu thập thông tin và làm nhiệm vụ. Với quy mô, tầm ảnh hưởng được coi là lớn nhất từ trước đến nay và kết quả cuộc điều tra lần này sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dân số giai đoạn tiếp theo.
Cuộc Tổng điều tra có ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và xây dựng Chiến lược cho giai đoạn 2021-2030, xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 của đất nước. Các kết quả điều tra góp phần tạo cơ sở giám sát hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên Hợp Quốc. Chính vì vậy cần có sự vào cuộc, phối hợp nhanh chóng, kịp thời của các cấp, các ngành để đạt được hiệu quả cao nhất về các thông tin dân số, chất lượng dân số và nhà ở. (228)
9. Hơn 400 cán bộ dân số tại Nghệ An được cung cấp thông tin kiến thức về công tác dân số trong tình hình mới
Nhằm nâng cao kiến thức về chất lượng dân số và đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền giáo dục về Dân số, chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho cán bộ và nhân dân. Ngày 4/4, tại Nghệ An Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh phối hợp với Trung tâm Dân số - KHHGĐ huyện Diễn Châu tổ chức chương trình “Truyền thông tư vấn tại cộng đồng về Dân số, chăm sóc SKSS” năm 2019 Tại buổi truyền thông, hơn 400 cán bộ dân số đã được cung cấp thêm những thông tin, kiến thức về Công tác Dân số và Phát triển trong tình hình mới; Kiến thức, kỹ năng cơ bản về chăm sóc sức khỏe sinh sản nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng gia đình hạnh phúc đã được truyền tải phong phú, thu hút, góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng, làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi về dân số trong tình hình mới. (192)
10. Tái tạo nguồn năng lượng mới cho công tác dân số ở Hà Tĩnh
Theo tinh thần Nghị quyết 78 tỉnh Hà Tĩnh về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) giai đoạn 2014 - 2020, những khó khăn trong cơ cấu tổ chức bộ máy, con người làm công tác dân số, đặc biệt là ở cấp cơ sở qua quá trình giải thể, tách, nhập đã được giải quyết.
Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy được thực hiện khá hoàn chỉnh ở cả cấp huyện và xã. Từ đó mỗi thành viên đều phát huy vai trò trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị. Đội ngũ cộng tác viên dân số cũng được kiện toàn và kiêm nhiệm các chức danh dân số, gia đình và y tế thôn bản.
Song hành với việc tham mưu, ban hành những chính sách... Nghị quyết 78 của tỉnh đã giải quyết cơ bản vấn đề kinh phí. Nguồn kinh phí đã tạo thuận lợi cho công tác dân số tại Tỉnh Hà Tĩnh trong việc triển khai các chương trình, hoạt động để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Đặc biệt là có được sự chủ động trong triển khai và phủ sóng chiến dịch CSSKSS - KHHGĐ. Đó cũng là yếu tố để những năm qua, công tác dân số ở Hà Tĩnh ngày càng chuyển biến. (256)
11. 15% dân số mắc các rối loạn liên quan tới stress
Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2017, Việt Nam có khoảng 15% dân số mắc các rối loạn liên quan tới stress như: Hoảng sợ, ám ảnh, rối loạn sang chấn và lo âu. Điều này đem đến những gánh nặng về mặt xã hội.
Tiến sĩ, bác sĩ Dương Minh Tâm Trưởng phòng M3 (các rối loạn liên quan đến stress) Viện sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, stress là một dạng sang chấn tâm lý.
Nguyên nhân dẫn đến stress có thể do sức ép trong công việc, học tập, thất vọng trong sự nghiệp, mâu thuẫn trong gia đình, xã hội, sự thiệt hại về kinh tế hoặc mất người thân…
Theo bác sĩ Tâm có 2 dạng stress thường gặp ở người bệnh
Stress bệnh lý cấp tính: Các tình huống stress không thể lường trước được hoặc những tình huống quá dữ dội đối với người bệnh. Người thân bị bệnh nặng, bị tấn công, gặp nguy hiểm… xuất hiện trong vòng vài phút đến vài giờ hay vài ngày gây ra các stress bệnh lý cấp tính.
Stress bệnh lý kéo dài: Thường gặp trong các tình huống stress quen thuộc lặp đi lặp lại đối với người bệnh. Sự xung đột, sự bất mãn hoặc những phiền nhiễu xảy ra thường xuyên trong đời sống hàng ngày.
"Stress có thể là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh nhưng cũng có thể chỉ là yếu tố thúc đẩy một bệnh sẵn có phát sinh. Những người chịu stress càng khó tìm được lối thoát càng dễ bị bệnh" bác sĩ Tâm cho biết.
Các rối loạn lo âu liên quan đến stress ngày càng gia tăng, thường khởi phát ở lứa tuổi trẻ, nữ gặp nhiều hơn nam.
Ở nước ta, Thống kê của Bộ Y tế năm 2017 cho thấy có khoảng 15% dân số mắc các rối loạn liên quan tới stress.
Lo âu mang đến nhiều gánh nặng xã hội, kinh tế, có khoảng 350 triệu bệnh nhân trên toàn thế giới phải chịu đựng trầm cảm, 5% phải chịu đựng lo âu. Chi phí y tế cho rối loạn lo âu cũng vô cùng lớn gấp 3 lần các bệnh nội khoa thông thường. Ngoài ra, có hơn 90% những người quyết định tự tử có rối loạn tâm thần đủ tiêu chuẩn chẩn đoán.
Hiện nay, có 30-50% số bệnh nhân không được phát hiện ở y tế cơ sở hoặc đa khoa.
Theo TS Dương Minh Tâm đa phần người bệnh không biết mình bị bệnh gì. Khi bắt gặp một số triệu chứng lo âu hồi hộp, tim đập nhanh, đánh trống ngực, vã mồ hôi run tay run chân, khô miệng, cảm giác khó thở, hụt hơi, đau hoặc khó chịu ở vùng ngực hoặc khó chịu ở vùng bụng, nóng rát thượng vị, buồn nôn, nôn khan,… bệnh nhân hay nhầm rối loạn tiền đình, suy nhược thần kinh, …"
Đa số bệnh nhân đều đi khám các chuyên khoa tim mạch, thần kinh (nhiều lần) trước khi được chẩn đoán là lo âu, mọi người thường có tâm lý tránh nén các cơ sở khám thần kinh" Bác sĩ Tâm cho hay.
Thông tin thêm một số trường hợp mắc chứng rối loạn do stress TS Dương Minh Tâm cho biết Viện sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai mới tiếp nhận một bệnh nhân nữ 38 tuổi.
Sau một thời gian biểu hiện hay căng thẳng lo lắng, bệnh nhân có cảm giác đau đầu mất ngủ. Mỗi khi gặp căng thẳng thường thấy hồi hộp, vã mồ hôi, nặng tức ở ngực, dạ dày trào ngược.
Trước khi nhập viện bệnh nhân đã đi khám nhiều nơi, yêu cầu được chụp chiếu xét nghiệp. Đã được điều trị ở (Khoa tim mạch, thần kinh ở bệnh viện tuyến huyện, tỉnh, TW) nhưng các biểu hiện trên không thuyên giảm.
Gia đình đưa bệnh nhân vào Viện Sức khỏe Tâm thần điều trị và được chuẩn đoán rối loạn dạng cơ thể do stress.
Theo TS Dương Minh Tâm đây chỉ là một trong nhiều trường hợp bệnh nhân không nhận biết, hoặc nhận biết sai về tình trạng của mình, dẫn đến mất khá nhiều chi phí trước khi tìm đến viện.
Một số bệnh nhân lo âu có thể phục hồi hoàn toàn sau điều trị, tuy nhiên nhiều trường hợp chỉ có thể điều trị để làm giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Các bệnh nhân mắc rối loạn lo âu nên đến khám sớm tại các cơ sở y tế có chuyên khoa tâm thần, các chuyên gia tâm lý.
Để điều trị lo âu ngoài sử dụng thuốc cần kết hợp nhiều phương pháp, điều chỉnh lối sống, liệu pháp thư giãn và liệu pháp nhận thức hành vi. (832)
12. "Bí quyết vàng" từ địa phương luôn dẫn đầu trong công tác dân số
Lương Ninh là một trong những địa phương luôn dẫn đầu trong công tác dân số của huyện Quảng Ninh thời gian qua.
Nhiều năm liền, tỷ suất sinh thô, tỷ lệ sinh con thứ 3 của địa phương luôn ở mức thấp, tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại đạt cao, chất lượng dân số ngày càng được cải thiện…
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền
Xã Lương Ninh có 3 thôn với 1.224 hộ/4.571 nhân khẩu, đời sống người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Nhiều năm trước đây, do đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, trình độ nhận thức của người dân hạn chế, quan niệm “sinh con trai để nối dõi” còn khá nặng nề nên số người sinh con thứ 3 trở lên ở xã còn cao.
Tuy nhiên, những năm gần đây, tỷ lệ phát triển dân số của xã luôn duy trì ở mức dưới 0,7%; số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng biện pháp tránh thai đạt gần 90%; tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm xuống còn 7,5%, xã đã đạt được mức sinh thay thế... Đây là kết quả đáng ghi nhận sau những nỗ lực của đội ngũ cán bộ dân số nơi đây.
Để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của công tác dân số, thời gian qua, Ban DS-KHHGĐ xã đã chú trọng việc đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền như: Tuyên truyền trực tiếp tại hộ gia đình, mở hội nghị nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền trên loa phát thanh của xã, phối hợp tuyên truyền lồng ghép qua các cuộc họp của các Chi hội phụ nữ, Chi hội nông dân, Đoàn Thanh niên…
Năm 2018, xã đã tổ chức 24 lượt tuyên truyền hưởng ứng cung cấp dịch vụ KHHGĐ trên loa phát thanh, thu hút 3.850 lượt nghe; 3 hội nghị tuyên truyền về sàng lọc trước sinh và sơ sinh, mất cân bằng giới tính, công tác DS trong tình hình mới tại 3 thôn, thu hút gần 200 người tham gia; tổ chức tuyên truyền lồng ghép với Hội Phụ nữ nhân các ngày lễ kỷ niệm thu hút hơn 780 lượt hội viên tham gia…
Tuyên truyền tới các đối tượng là người lớn tuổi trong gia đình
Năm 2018, Ban DS-KHHGĐ đã phối hợp với trạm y tế xã triển khai 4 đợt truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ CSSK/KHHGĐ, thu hút 350 lượt người tham gia khám phụ khoa và 58 người điều trị bệnh. Đặc biệt, mô hình sàng lọc trước sinh và sơ sinh đang dần được người dân chú trọng, năm 2018, có 46 bà mẹ mang thai đã được khám sàng lọc trước sinh, 9 trẻ sinh ra được lấy mẫu máu gót chân để sàng lọc. Mặc dù số lượng trẻ được sàng lọc sơ sinh chưa cao nhưng Lương Ninh là một trong những địa phương có ý thức trong việc tầm soát bệnh và hạn chế tối đa việc để lại di chứng bệnh tật ở trẻ nhằm nâng cao chất lượng dân số.
Bên cạnh đó, các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ không sinh con thứ 3, Câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau tại các thôn hàng tháng sinh hoạt đều đặn. Tại các buổi sinh hoạt định kỳ, chị em được nói chuyện, trao đổi kiến thức về sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sàng lọc trước sinh và sơ sinh, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, xây dựng mô hình gia đình hạnh phúc, làm kinh tế giỏi... Không chỉ tuyên truyền cho đối tượng nam, nữ trong độ tuổi sinh đẻ, cán bộ dân số còn mở rộng tới các đối tượng là người lớn tuổi trong gia đình. Chính các cụ ông, cụ bà sẽ trở thành những tuyên truyền viên tích cực, động viên con cháu thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ.
Nhờ làm tốt công tác dân số mà thôn Phú Cát, 11 năm liền không có trường hợp sinh con thứ 3, chất lượng dân số nơi đây được tăng lên đáng kể. Đây là địa phương có Câu lạc bộ không sinh con thứ 3 sinh hoạt thường xuyên và khá hiệu quả, nhiều hộ gia đình sinh con một bề nhưng họ vẫn dừng lại số con hiện có sau khi được vận động tham gia câu lạc bộ.
Tuy nhiên, theo chị Lê Thị Tuẩn, cán bộ dân số xã Lương Ninh, công tác dân số trên địa bàn vẫn còn gặp nhiều khó khăn như: Tỷ lệ sinh con thứ 3 có giảm nhưng còn chậm, trường hợp đảng viên vi phạm chính sách dân số vẫn còn làm ảnh hưởng đến công tác tuyên truyền của đội ngũ cán bộ dân số, mức chênh lệch giới tính còn cao…Trong thời gian tới, xã Lương Ninh sẽ tiếp tục duy trì các kết quả đã đạt được, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng đến từng gia đình, giúp người dân hiểu rõ hơn công tác dân số trong tình hình mới ở Quảng Bình. (910)
13. Công bố mới: Tuổi thọ trung bình của người dân tăng, nữ sống thọ hơn nam
Số liệu thống kê của WHO cũng cho thấy, nữ giới có tuổi thọ trung bình cao hơn nam giới.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố trong báo cáo thống kê y tế toàn cầu cho thấy, tuổi thọ trung bình của người dân trên toàn thế giới đã tăng thêm 5,5 năm trong giai đoạn 2000 – 2016 và nữ giới sống thọ hơn nam giới.Theo báo cáo thống kê y tế toàn cầu, tuổi thọ trung bình toàn cầu tăng từ 66,5 tuổi năm 2000 lên 72 tuổi năm 2016.
Số liệu thống kê của WHO cũng cho thấy, nữ giới có tuổi thọ trung bình cao hơn nam giới. Khi được sinh ra, số bé trai dường như được dự báo sẽ nhiều hơn số bé gái trong năm nay, với khoảng 73 triệu bé trai và 68 triệu bé gái. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, tỷ lệ tử vong có xu hướng cao hơn ở các bé trai và nam giới trưởng thành, do vậy tỷ lệ sẽ thay đổi khi dân số già đi.
Trên quy mô toàn cầu, các bé gái sinh ra trong năm 2016 được dự báo sẽ sống đến 74,2 tuổi, trong khi các bé trai được dự báo sẽ sống đến 69,8 tuổi.
WHO cũng chỉ ra một thực tế, trong khi hầu hết những người qua đời ở các nước giàu là vì tuổi già, thì có tới gần 1/3 số trường hợp tử vong ở các nước nghèo là trẻ em dưới 5 tuổi.
Theo báo cáo, trong 16 năm đầu tiên của thế kỷ 21, thế giới đã chứng kiến sự suy giảm đáng kể số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt là ở khu vực châu Phi cận Sahara – nơi đạt được tiến bộ trong việc chống lại bệnh sốt rét, bệnh sởi và nhiều bệnh truyền nhiễm khác.
Các cụ già ở làng Thúy Lĩnh (Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội) tham gia hội vật cầu cổ truyền tại sân đình vào ngày mùng 4, 5 và 6 tháng Giêng hàng năm. Ảnh: Minh NguyễnTuổi thọ trung bình cũng tăng nhờ những tiến bộ trong cuộc chiến chống lại HIV/AIDS – căn bệnh hoành hành ở châu Phi vào những năm 1990.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của các nước nghèo, WHO cho biết vẫn còn khoảng cách đáng kể về tuổi thọ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Theo số liệu thống kê, người dân ở các nước có thu nhập thấp có tuổi thọ ít hơn 18 năm so với người dân ở các nước có thu nhập cao.
Chẳng hạn tại Lesotho, người dân nước này có tuổi thọ trung bình là 52 tuổi, ở Cộng hòa Trung Phi là 53 tuổi trong khi ở Thụy Sỹ là hơn 83 tuổi và ở Nhật Bản là hơn 84 tuổi.
Tuổi thọ trung bình của Việt Nam năm 2018 ở mức 73,5 (nam là 70,9 tuổi và nữ là 76,2 tuổi). Nếu như vào năm 1960, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 40, thế giới là 48 thì đến năm 2015 tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã là 73,2 trong khi thế giới là 69.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất châu Á. Thời gian chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già ngắn hơn nhiều so với nước khác. Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, đến năm 2050 tỉ lệ dân số trên 65 tuổi của Việt Nam sẽ chiếm 23%. Nếu năm 2009 cứ 7 người trong độ tuổi lao động sẽ hỗ trợ 1 người cao tuổi thì đến năm 2034 là hơn 3 người. (659)
14. Già hóa dân số nhanh chóng: Không hoàn toàn là gánh nặng
Cũng theo Liên Hợp Quốc, từ năm 2014, Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hóa dân số, dự báo nước ta sẽ mất không tới 20 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% tổng dân số.
Đầu năm 2019, đại diện Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), Bộ Y tế cho biết năm 2018 dân số nước ta tăng thêm 1 triệu người so với năm 2017, nâng tổng số dân lên 94,67 triệu người. Như vậy, Việt Nam đang đứng thứ 14 trong số các quốc gia đông dân nhất thế giới.
Với mức gia tăng 1 triệu dân năm 2018, tính trung bình mỗi ngày dân số nước ta tăng khoảng 2.700 người mỗi ngày.
Trong đó, Hà Nội là địa phương có số trẻ sinh ra lớn nhất nước với khoảng 200.000 người trong năm 2018. Với mức sinh này, mỗi năm Hà Nội "sản xuất" ra số trẻ tương đương số dân một huyện lớn.
Hiện nay, dân số Hà Nội tăng nhanh ở cả nội thành và ngoại thành nhưng tăng mạnh nhất là ở những quận có các khu đô thị mới. Đây cũng là có quy mô dân số lớn thứ 2 cả nước (sau TP HCM) với dân số chiếm 8% cả nước/
Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế cho biết, hiện nay mức sinh thay thế tiếp tục duy trì trên phạm vi cả nước, tuy nhiên có sự khác biệt giữa các địa phương.
Theo đó, ở các vùng khó khăn, số con trung bình của một phụ nữ trong tuổi sinh đẻ là 2 - 3 con. Trái lại, ở nơi đô thị, kinh tế phát triển, mức sinh xuống thấp dưới 1,8 con. Đáng chú ý, có tới 16 tỉnh có mức sinh thấp dưới 1,8 con và 4 tỉnh có mức sinh dưới 1,6 con.
Ông Tú cho biết, năm 2019 là năm đầu tiên Bộ Y tế triển khai nghị quyết về công tác dân số trong tình hình mới với mục tiêu là tập trung duy trì vững chắc mức sinh thay thế, hạn chế tốc độ tăng tỉ số giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Đến nay, một số chỉ tiêu cơ bản cần đạt được như: Mức giảm sinh bình quân; tăng tuổi thọ trung bình lên 73,6 tuổi và đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức 114 bé trai/100 bé gái...(456)
15. Tốc độ già hóa dân số của Việt Nam thuộc nhóm nhanh nhất thế giới
Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà cho rằng, Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn của quá trình già hóa dân số nhanh chóng. Cụ thể, tuổi thọ trung bình của Việt Nam đã tăng từ 68,6 tuổi năm 1999 lên tới 73,2 tuổi năm 2014, và dự báo sẽ lên 78 tuổi vào năm 2030. Tính đến hết năm 2017, cả nước có 11 triệu người cao tuổi, chiếm khoảng 11,95% dân số, trong đó có khoảng gần 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên.
Cũng theo Liên Hợp Quốc, từ năm 2014, Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hóa dân số, dự báo nước ta sẽ mất không tới 20 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% tổng dân số, thậm chí đến năm 2038 nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm đến 20% tổng dân số.
Điều này sẽ đặt ra những thách thức lớn cho việc đảm bảo hạ tầng an sinh xã hội để đáp ứng đủ nhu cầu của một xã hội già hóa dân số nhanh chóng, trong khi còn nhiều người đang sống ở mức nghèo, cận nghèo...
Tuy nhiên theo TS Nguyễn Ngọc Quỳnh, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, già hóa dân số cũng cần được nhìn nhận trên khía cạnh tích cực. "Dân số cao tuổi không có nghĩa hoàn toàn là gánh nặng mà đây là cơ hội lớn cho các ngành kinh tế dịch vụ cho người cao tuổi. Thậm chí ở Trung Quốc thị trường này rất triển vọng khi tỷ lệ người cao tuổi chi cho các dịch vụ chiếm 165 tỷ USD/năm”, bà Quỳnh thông tin. Cũng theo bà Quỳnh, người cao tuổi còn là lao động cho xã hội, với khoảng 46% người cao tuổi Việt Nam vẫn đang làm các công việc được trả lương.
Bà Quỳnh cũng cho rằng những thách thức của già hóa dân số là những điều mà Việt Nam không thể bỏ qua. Do đó, thích với già hóa dân số không chỉ là giải quyết vấn đề của người cao tuổi mà cần có chính sách tiếp cận toàn diện, theo vòng đời để chuẩn bị cho giai đoạn dân số già.
"Điều quan trọng là các nhà hoạch định chính sách phải ý thức về xu hướng già hóa và đảm bảo người cao tuổi tiếp tục đóng vai trò tích cực trong cộng đồng để tránh bị cô lập. Bởi vì, cô lập có tác động tiêu cực đến sức khỏe và giải quyết nó thực sự quan trọng", bà Quỳnh nhấn mạnh.
Cũng cho rằng, người cao tuổi vẫn là một lực lượng lao động lớn, Ths. Lê Minh Giang, Chánh Văn phòng Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam cho rằng, để tận dụng được nguồn nhân lực này cần phải tạo thuận lợi trong việc tiếp cận của người cao tuổi với vốn tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh, thành lập doanh nghiệp...
Tuy nhiên, để thích ứng với già hóa dân số, cần phát triển và tăng cường quản lý dịch vụ chăm sóc xã hội, cũng như có cơ chế phối hợp công tư trong cung ứng dịch vụ chăm sóc xã hội. Đặc biệt là khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng như gắn kết giữa chăm sóc y tế tại cộng đồng với dịch vụ chăm sóc xã hội chính thức và phi chính thức./.(619)
16. Bất cập trong thực hiện tổng điều tra dân số trực tuyến
Theo số liệu đăng ký, Đà Nẵng là một trong ba địa phương có tỷ lệ đăng ký trực tuyến khai tổng điều tra dân số cao nhất cả nước.
Từ 1/4, cùng với cả nước, thành phố Đà Nẵng đã tiến hành thực hiện tổng điều tra dân số và nhà ở trên địa bàn.
Theo số liệu đăng ký, Đà Nẵng là một trong ba địa phương có tỷ lệ đăng ký trực tuyến khai tổng điều tra dân số cao nhất cả nước.
Mặc dù ứng dụng công nghệ thông tin vào điều tra dân số, nhưng sau 1 tuần triển khai địa phương này gặp những bất cập nhất định.
Là một trong số 50 hộ dân của phường Hòa Thuận Đông, quận Hải Châu đăng ký kê khai thông tin về dân số và nhà ở theo hình thức trực tuyến webform tại trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê. Thế nhưng, sau 7 ngày triển khai, ông Đỗ Tuấn Phong vẫn chưa thực hiện kê khai được những nội dung về nhân khẩu và nhà ở của hộ gia đình theo quy định.
Theo ông Phạm Quang Vinh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Trung ương cho biết, từ sau cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở đầu tiên năm 1979, Việt Nam đã tiến hành ba cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở vào các năm 1989, 1999 và 2009 nhằm cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình dân số, nhân khẩu học và nhà ở trên phạm vi toàn quốc. (296)
17. Ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn
Tổng điều tra (TĐT) năm nay thực hiện trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, nguồn ngân sách nhà nước hạn chế, nguồn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế dần cắt giảm, trong khi nhu cầu thông tin về dân số ngày càng cao. So với năm 2009, TĐT 2019 đã cải tiến cả phương pháp và hình thức thu thập thông tin.
Trước hết về phương pháp thu thập thông tin, nếu như TĐT 2009 chỉ sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp (điều tra viên thống kê phỏng vấn trực tiếp đối tượng điều tra và ghi chép thông tin), TĐT 2019 áp dụng cả hai phương pháp là điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp (hộ dân cư tự cung cấp thông tin về dân số và nhà ở thông qua phiếu điều tra trực tuyến).
Về hình thức thu thập thông tin, ngoài việc sử dụng hình thức phiếu giấy in sẵn như năm 2009, TĐT 2019 áp dụng thêm hai hình thức thu thập thông tin mới: Điều tra bằng phiếu điện tử trên thiết bị di động (còn gọi là CAPI) và điều tra bằng phiếu trực tuyến sử dụng internet (còn gọi là Webform).
Do thay đổi về phương pháp và hình thức thu thập thông tin, nhiều công đoạn khác của TĐT cũng đã được thay đổi theo hướng ứng dụng CNTT bao gồm: Lưu trữ và sử dụng sơ đồ nền xã/phường, lập danh sách thôn/tổ dân phố và địa bàn điều tra, lập và cập nhật Bảng kê hộ, chọn mẫu hộ, nhắn tin và gửi thư điện tử (email) đến các hộ đăng ký thực hiện Webform, kiểm tra và duyệt số liệu trực tuyến.
Theo lãnh đạo Tổng cục Thống kê, việc cải tiến này đem lại những lợi ích thiết thực trong nâng cao chất lượng số liệu, tăng tính minh bạch và chặt chẽ của quy trình sản xuất thông tin thống kê, rút ngắn thời gian công bố kết quả TĐT, giảm kinh phí điều tra trong dài hạn và phù hợp với xu hướng tổ chức điều tra của thế giới. (383)
18. Tổng điều tra (TĐT) là nguồn thông tin tin cậy giúp Chính phủ điều hành phát triển đất nước
TĐT là nguồn thông tin chủ yếu và tin cậy về tình hình dân số, nhân khẩu học và tình trạng nhà ở của dân cư nhằm đáp ứng các mục tiêu về tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia đã được luật định, đồng thời cũng là nguồn thông tin phục vụ Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong đánh giá tình hình, xây dựng chiến lược, chính sách liên quan tới người dân và các chính sách phát triển đất nước.
Hiện nay thông tin về dân số từ TĐT chỉ được cung cấp 10 năm một lần. Trong khi đó, tại Việt Nam hiện có nhiều nguồn dữ liệu sẵn có liên quan đến dân số như dữ liệu từ hệ thống thống kê hộ tịch của Bộ Tư pháp, hệ thống thống kê hành chính của ngành công an, y tế. Tuy nhiên, dữ liệu từ các nguồn này hầu như chưa đáp ứng yêu cầu về tổng hợp dữ liệu dân số do một số lý do như: Thông tin thu thập không đủ chi tiết; mỗi hệ thống thông tin sử dụng các quy ước và khái niệm về dân số khác nhau; cơ chế chia sẻ thông tin giữa hầu hết các cơ quan, bộ ngành có liên qua với Tổng cục Thống kê chưa được thiết lập một cách hiệu quả.
Do đó, nhằm cải thiện tính kịp thời của thông tin về dân số cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng dữ liệu sẵn có, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước và tận dụng tối đa các lợi thế của công nghệ thông tin, TĐT 2019 được kỳ vọng sẽ là căn cứ để cập nhật đầy đủ thông tin về dân số, từ đó đề xuất nâng cao chất lượng thông tin của hệ thống báo cáo hành chính để tiến tới khong thực hiện TĐT 2019. (346)
19. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được kì vọng để tiến tới không thực hiện tổng điều tra năm 2029
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được kì vọng sẽ là căn cứ để cập nhật đầy đủ thông tin về dân số. Từ đó, đề xuất nâng cao chất lượng thông tin của hệ thống báo cáo hành chính để tiến tới không thực hiện tổng điều tra năm 2029…
Cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (tổng điều tra) bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/4 và đến hết ngày 25/4/2019.
Ông Nguyễn Bích Lâm -Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Phó trưởng ban Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương dãn thông điệp của Liên Hợp quốc và nhấn mạnh: “Tất cả mọi người dân đều được tính đến như là một chủ thể của sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, cũng là một người được hưởng lợi từ thành quả của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Các thành viên trong Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương đã đi đến các vùng, miền trong cả nước để thực tế giám sát, chỉ đạo việc điều tra, phỏng vấn của các hộ tại các địa phương. Điển hình, tại địa bàn thành phố Cần Thơ đã huy động 1.016 điều tra viên và 96 tổ trưởng tham gia thu thập tin tại địa bàn. Tại Kiên Giang, tỉnh đã huy động trên 2.000 điều tra viên, tổ trưởng và giám sát viên các cấp.
Sau 10 ngày tiến hành tổng điều tra, lực lượng thống kê trong cả nước đã phỏng vấn 62,93% số hộ gia đình trên tổng số hộ; đã hoàn thành điều tra 20,5% số địa bàn.
Tuy nhiên, quá trình điều tra dân số cũng nảy sinh một số bất cập trong quá trình thu thập thông tin, như: Một số điều tra viên còn gặp lúng túng, nhất là khi gặp những hộ phức tạp, nhiều nhân khẩu; thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu, đôi khi bị treo máy; vẫn còn hiện tượng lỗi khi thực hiện điều tra bằng CAPI, chủ yếu do lỗi phần mềm; đôi khi mạng bị nghẽn, chậm khi đồng bộ dữ liệu hay dân cư sống rải rác, xa nhau hoặc ở các khu công nghiệp, dân có nhiều thay đổi về địa điểm, công việc ...
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm cho rằng, cuộc tổng điều tra là nguồn thông tin phục vụ Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong đánh giá tình hình, xây dựng chiến lược, chính sách liên quan tới người dân và các chính sách phát triển đất nước…
Tỏng cục trưởn nhấn mạnh, tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được kì vọng sẽ là căn cứ để cập nhật đầy đủ thông tin về dân số. Từ đó, đề xuất nâng cao chất lượng thông tin của hệ thống báo cáo hành chính để tiến tới không thực hiện tổng điều tra năm 2029…
Do đó, ông Nguyễn Bích Lâm đã yêu cầu Ban chỉ đạo các cấp các tỉnh cần triển khai đúng tiến độ, đồng thời, cần quán triệt các điều tra viên làm đúng quy trình CAPI, không sử dụng dữ liệu hành chính trong điều tra. Các giám sát viên các tỉnh, huyện cần tăng cường xuống địa bàn giám sát điều tra đúng phương án; đặc biệt, Ban chỉ đạo các cấp cần tiếp tục thực hiện tốt tuyên truyền…
Hầu hết Ban chỉ đạo các cấp tỉnh, huyện, xã đều đề xuất Ban chỉ đạo Trung ương cần sớm phê duyệt dự toán và bổ sung kinh phí còn thiếu cho tỉnh để chi những khoản, mục khi kết thúc điều tra.
Tin liên quan
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương tri ân các đối tác đã đồng hành trong chặng đường phát triển Bệnh viện
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch mới nhất
- Bệnh viện Phụ sản Trung ương chào đón công dân nhí đầu tiên năm 2025
- Khánh thành hệ thống tự động hoàn toàn cho phòng xét nghiệm tại Việt Nam
- Xanh - sạch - đẹp ở Bệnh viện Phổi Thanh Hóa
- Trao giải cuộc thi “Cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp” lần thứ nhất năm 2024
- Bệnh viện A Thái Nguyên: "Xanh - sạch - đẹp" hướng tới sự hài lòng của người bệnh