Trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội trước kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XV, trong đó có kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang.

11/11/2022 | 14:23 PM

 | 

Bộ Y tế nhận được công văn số 487/BDN ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Ban Dân nguyện về việc trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội trước kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XV, trong đó có kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang.

Sau khi nghiên cứu nội dung kiến nghị và rà soát các văn bản liên quan, Bộ Y tế xin trả lời các kiến nghị của cử tri địa phương về những vấn đề liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế (nội dung trả lời cử tri gửi kèm). Bộ Y tế trân trọng kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội để thông tin tới cử tri.

Kiến nghị số 01: Chính sách khám bệnh, chữa bệnh BHYT hiện hành và thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT liên quan đến tổng mức thanh toán hàng năm rất bất cập, ảnh hưởng đến quyền lợi người bệnh và cơ sở y tế. Đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT, thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT đối với các cơ sở KCB dứt điểm hàng năm, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài như hiện nay; bổ sung quy định về thời gian thẩm định quyết toán khi vượt trần, trách nhiệm của cơ quan thẩm định (hiện nay trách nhiệm này giao cho cơ quan bảo hiểm xã hội địa phương thẩm định nhưng vẫn có trường hợp Bảo hiểm xã hội Việt Nam thẩm định lại và đề nghị xuất toán gây khó khăn cho cơ sở khám, chữa bệnh; có trường hợp kéo dài đến 2 năm vẫn chưa được thẩm định).

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Về quy định tổng mức thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT:

- Điều 24 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có quy định “Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo báo cáo quyết toán năm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được thẩm định nhưng không vượt tổng mức thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế”.

- Sau 3 năm thực hiện, Bộ Y tế nhận thấy có một số nội dung chưa thống nhất giữa quy định về tổng mức thanh toán và các quy định về tạm ứng, thanh toán, quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo giá dịch vụ được quy định tại Điều 32 Luật Bảo hiểm y tế; sự không hợp lý về nguyên lý kinh tế y tế của quy định về tổng mức thanh toán trong phương thức thanh toán theo giá dịch vụ; phản ánh của các địa phương, các cơ sở khám chữa bệnh về các khó khăn, vướng mắc trong việc xác định tổng mức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại các cơ sở y tế; đặc biệt trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, ảnh hưởng tới chi phí khám chữa bệnh thực tế cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đã sử dụng cho người tham gia bảo hiểm y tế từ năm 2021. Do đó để khắc phục những vướng mắc trên, Bộ Y tế đang nghiên cứu tham mưu trình Chính phủ xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018.

 

2. Về việc Bảo hiểm xã hội Việt Nam chậm thanh toán:

- Thời gian qua, việc thanh, quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã hội ở một số địa phương còn kéo dài do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã hội không thống nhất quyết toán; cơ sở khám chữa bệnh chậm gửi dữ liệu quyết toán; cơ quan Bảo hiểm xã hội thẩm định chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế vượt dự toán kéo dài… Bộ Y tế đã có văn bản gửi cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam đẩy nhanh tiến độ giám định, thẩm định, giải quyết dứt điểm tồn đọng trong thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế nhẳm đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ sở khám chữa bệnh[1]. Tuy nhiên, do số lượng cơ sở khám chữa bệnh trong cả nước ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế là rất lớn, khối lượng công việc nhiều, quy trình thẩm định, trình Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội thông qua và trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung dự toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong trường hợp vượt dự toán còn có nhiều khâu, nhiều bước, nên việc thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế còn chậm.

- Bộ Y tế xin tiếp thu kiến nghị của cử tri để nghiên cứu quy trình thanh, quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi và có ý kiến để Bảo hiểm xã hội Việt Nam đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

 

Kiến nghị số 02: Các thủ tục hưởng chế độ BHXH đối với người lao động là F0 điều trị tại nhà; việc thanh toán bảo hiểm y tế cho bệnh nhân COVID-19 đang điều trị ngoại trú nhưng phải vào điều trị nội trú do bệnh lý khác đến nay vẫn chưa có hướng dẫn, gây khó khăn cho người bệnh. Đề nghị xem xét, giải quyết.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Các thủ tục hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động là F0 điều trị tại nhà.

- Theo quy định tại Điều 24, Điều 25 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, khi bản thân gặp vấn đề về sức khỏe, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được hưởng chế độ ốm đau nếu đáp ứng các điều kiện: Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc; có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Theo đó, người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội là F0 điều trị tại nhà được hưởng chế độ ốm đau nếu có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền.

- Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 1492/KCB-PHCN&GĐ ngày 19/11/2021, Công văn số 238/BYT-KCB ngày 14/01/2022, theo đó, hồ sơ hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động bị ốm đau thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 100 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và khoản 1, 2 Điều 21 Thông tư số 56/2017/TT-BYT của Bộ Y tế. Cụ thể, hồ sơ đề nghị hưởng (đối với người lao động là F0 hoặc chăm con dưới 7 tuổi là F0) gồm giấy tờ sau:

+ Đối với người lao động là F0 điều trị nội trú: Giấy ra viện.

+ Đối với người lao động là F0 điều trị ngoại trú: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sĩ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị nội trú.

- Ðể giải quyết những vướng mắc, bảo đảm quyền lợi cho người lao động, giảm thủ tục hành chính, giải quyết kịp thời chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật và phù hợp với bối cảnh dịch COVID-19 đã diễn ra phức tạp ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước thời gian qua, Bộ Y tế đã xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ 02 nội dung, cụ thể:

+ Cho phép Bộ Y tế ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 56/2017/TT-BYT theo trình tự thủ tục rút gọn;

+ Đề xuất Chính phủ ban hành Nghị quyết công nhận 7 loại giấy tờ để F0 điều trị tại nhà được hưởng chế độ có giá trị như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng Bảo hiểm xã hội, để Bảo hiểm xã hội làm hồ sơ hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động mắc COVID-19. Ngày 15/7/2022, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 4332/VPCP-KGVX gửi Bộ Y tế để hoàn thiện hồ sơ trình Ủy ban thường vụ quốc hội giải quyết chế độ nghỉ việc hưởng Bảo hiểm xã hội đối với người lao động mắc COVID-19. Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp thu ý kiến các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để trình báo cáo xin ý kiến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

2. Việc thanh toán bảo hiểm y tế cho bệnh nhân COVID-19 đang điều trị ngoại trú nhưng phải vào điều trị nội trú do bệnh lý khác

Thanh toán chi phí khám chữa bệnh COVID-19 là nội dung được đề cập tại Nghị quyết 12/2021/NQ-UBTVQH15 về cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. Trên cơ sở Nghị quyết ban hành, Bộ Y tế đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2022/NĐ-CP ngày 29/4/2022 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. Theo đó, Nghị định đã quy định cụ thể việc thanh toán chi phí khám chữa bệnh đối với người bệnh COVID-19 tại cơ sở y tế công lập được thực hiện như sau:

- Đối với người mắc bệnh do COVID-19: Thực hiện theo quy định tại mục a, Khoản 1, Điều 7 của Nghị định số 29/2022/NĐ-CP.

- Đối với chi phí khám bệnh, chữa bệnh các bệnh khác trong quá trình điều trị COVID-19: Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán phần chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo phạm vi được hưởng và mức hưởng bảo hiểm y tế như trường hợp đi khám bệnh, chữa bệnh đúng tuyến. Người bệnh COVID-19 có thẻ bảo hiểm y tế tự chi trả chi phí cùng chi trả và các chi phí ngoài phạm vi được hưởng (nếu có) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.

 

Kiến nghị số 03: Hiện nay nhiều trường hợp bệnh nhân chưa được tích hợp thẻ BHYT trên căn cước công dân do đó khi đến cơ sở khám chữa bệnh bằng Căn cước công dân không được tiếp nhận khám chữa bệnh.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030, Bộ Công an, Bộ Y tế và Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp tổ chức triển khai thí điểm sử dụng căn cước công dân gắn chíp để khám chữa bệnh bảo hiểm y tế nhằm hướng tới nền hành chính hiện đại, chính phủ số, tạo điều kiện tối đa cho người có thẻ bảo hiểm y tế về các thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, không phát sinh bất kỳ thủ tục giấy tờ, thời gian thực hiện thủ tục khám chữ bệnh được tiết giảm tối đa. Bộ Y tế không có văn bản nào quy định về việc người dân chưa được tích hợp thẻ bảo hiểm y tế trên căn cước công dân thì không được tiếp nhận khám chữa bệnh. Việc triển khai khám chữa bệnh bằng căn cước công dân gắn chip được làm từng bước, có lộ trình, tiến hành song song với các hình thức sử dụng thẻ bảo hiểm y tế giấy, sử dụng app của Bảo hiểm xã hội Việt Nam để khám chữa bệnh như hiện nay, nhằm đa dạng hóa hình thức để người dân có thể làm thủ tục khám chữa bệnh nhanh nhất.

- Ngày 28/2/2022, Bộ Y tế đã có hướng dẫn triển khai thí điểm khám chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp, cụ thể:

+ Đối với người bệnh đã được cấp căn cước công dân có gắn chíp, Bộ Y tế hướng dẫn: Trường hợp khi kiểm tra căn cước công dân (quét mã QR code) hoặc qua ứng dụng VNEID đã có thông tin hợp lệ về tham gia bảo hiểm y tế thì cơ sở khám chữa bệnh thực hiện kiểm tra, đối chiếu thông tin về bảo hiểm y tế và tiếp đón người bệnh theo quy trình khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hiện hành; đồng thời thông tin cho người bệnh biết để đi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế kể từ lần sau bằng căn cước công dân gắn chíp hoặc bằng ứng dụng VNEID;

+ Trường hợp khi kiểm tra thông tin nhưng không có thông tin hợp lệ về tham gia bảo hiểm y tế: Giải thích để người bệnh đó biết tình trạng của thẻ bảo hiểm y tế trên căn cước công dân chưa thể thực hiện được; thực hiện tiếp đón người bệnh theo quy trình khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hiện hành (xuất trình thẻ bảo hiểm y tế và giấy tờ tùy thân có ảnh).

+ Còn đối với người bệnh chưa được cấp căn cước công dân có gắn chíp, sẽ thực hiện tiếp đón người bệnh theo quy trình khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hiện hành (xuất trình thẻ bảo hiểm y tế và giấy tờ tùy thân có ảnh).

- Việc triển khai tích hợp thẻ bảo hiểm y tế trên căn cước công dân thuộc trách nhiệm chính của Bộ Công an, cơ quan phối hợp là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bộ Y tế cũng đã nhận được báo cáo của một số đơn vị, địa phương (Sở Y tế Cao Bằng, Sở Y tế Long An, Sở Y tế Quảng Nam,…) và đã tổng hợp nội dung này trong báo cáo kết quả triển khai Đề án 06 trong 6 tháng đầu năm 2022 gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an; đồng thời đã có kiến nghị, đề xuất Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam sớm thực hiện đồng bộ đầy đủ thông tin thẻ bảo hiểm y tế với dữ liệu cấp căn cước công dân để tạo thuận lợi cho người dân khi đi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp.

 

Kiến nghị số 04: Hiện tại bậc lương cán bộ, viên chức ngành y tế áp dụng như cán bộ, viên chức khác là chưa hợp lý, đề nghị xây dựng khung bậc lương phù hợp với thời gian đào tạo và có chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực kỹ thuật cao.

Kiến nghị số 05: Đề nghị nghiên cứu có chế độ bảo hiểm nghề nghiệp, chế độ an sinh cho cán bộ ngành y tế, nhất là cán bộ y tế tuyến đầu tham gia công tác phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm; chính sách đãi ngộ, thu hút cán bộ y tế, chuyên gia, bác sĩ giỏi; có hành lang pháp lý đủ mạnh để đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế khi thực hiện nhiệm vụ.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Chính sách đãi ngộ cho cán bộ, nhân viên y tế:

- Hiện nay, chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang đã được Chính phủ, các Bộ ngành quy định chi tiết tại các Nghị định, Thông tư[2]. Ngoài ra, công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập, nhất là hệ thống y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và chế độ phụ cấp đặc thù, chế độ phụ cấp chống dịch[3].

- Cán bộ, viên chức y tế, cán bộ quân y đang công tác tại các cơ sở y tế thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề mức cao nhất là 70% mức lương theo ngạch bậc hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) và phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương theo ngạch hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Bên cạnh đó trong thời gian công tác, nhân viên y tế thôn, bản được hưởng phụ cấp hàng tháng bằng 0,3 và 0,5 so với mức lương tối thiểu chung[4].

- Ngoài ra trong thời gian dịch COVID-19, để kịp thời động viên cán bộ, viên chức y tế tham gia phòng chống dịch, Bộ Y tế đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành các Nghị quyết: quy định một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; quy định chế độ chống dịch cho các tình nguyện viên; các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV[5].

- Trong quá trình triển khai thực hiện, để khắc phục những bất cập và trên cơ sở tương quan như các ngành nghề khác (giáo dục, thanh tra,...) Bộ Y tế đã đề nghị Chính phủ, Ban Chỉ đạo tiền lương nhà nước và Bộ Nội vụ cho thực hiện: (i) Phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, viên chức y tế tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa được thực hiện. (ii) Chức danh Bác sĩ, Bác sĩ Y học dự phòng, Dược sĩ đề nghị xếp lương bậc 2 vì theo quy định tại Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt khung trình độ quốc gia Việt Nam thì việc đào tạo ngành Y trong 4 năm đạt được trình độ tương đương bậc 6 (Cử nhân), kết thúc 6 năm đạt trình độ tương đương bậc 7 (Thạc sĩ), kết thúc 3 năm chuyên khoa tương đương bậc 8 (Tiến sĩ).

- Trong thời gian tới, Bộ Y tế tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp sau:

+ Nâng cao năng lực cho hệ thống y tế dự phòng và y tế cơ sở để thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở.

+ Thực hiện đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ y tế; có các chính sách đủ mạnh để khuyến khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và trong lĩnh vực y tế dự phòng” theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

+ Xây dựng chế độ tiền lương mới: Thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII, Nghị quyết của Chính phủ và kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng từ trước đến nay, đảm bảo quyền lợi cho cán bộ, viên chức, người lao động ngành Y tế được hưởng mức phù hợp[6].

2. Hành lang pháp lý đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế:

Để đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho nhân viên y tế, trong thời gian qua Bộ Y tế đã và đang nỗ lực thực hiện một số giải pháp sau:

- Triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đổi mới tác phong, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh, giảm quá tải bệnh viện, tạo điều kiện thuận tiện cho người dân khi đến khám bệnh nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn người dân.

- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông như tổ chức hội thảo tăng cường công tác truyền thông để đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành của chính quyền, cơ quan công an, dân phòng và các ban ngành khác; nâng cao vai trò và sự tham gia của người dân, người bệnh trong việc phát hiện các nguy cơ và hành vi, bạo lực và cùng lên án, ngăn chặn các hành vi bạo lực kịp thời...

- Đã chủ động, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:

+ Ký kết Quy chế phối hợp số 03/QC-BCA-BYT ngày 26/9/2013 giữa Bộ Công an và Bộ Y tế về công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong lĩnh vực y tế; Quy chế số 36/KCB-CSQLHC ngày 28/01/2019 về phối hợp giữa Cục Quản lý khám, chữa bệnh - Bộ Y tế và Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

+ Bộ Y tế đã có công văn số 2544/BYT-KCB ngày 15/5/2017 gửi Bộ Công an về việc tăng cường phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự bệnh viện; trong đó đề nghị Bộ Công an tiếp tục chỉ đạo các đơn vị công an địa phương tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn thực hiện một số nội dung: Điều tra xác minh làm rõ các hành vi và đối tượng gây bạo hành trong bệnh viện đối với các vụ việc nêu trên, truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu có phạm tội); Tiếp tục chỉ đạo công an địa phương thực hiện nội dung Quy chế số 03/QC-BCA-BYT ngày 26/9/2017 giữa Bộ Công an và Bộ Y tế về việc  phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Y tế về công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong lĩnh vực y tế; Tăng cường đảm bảo an ninh trật tự khu vực xung quanh bệnh viện; Hướng dẫn các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn trang bị các thiết bị kỹ thuật bảo đảm an ninh; phối hợp tập huấn, nâng cao trình độ bảo vệ, phản ứng nhanh với các tình huống gây rối, đánh nhau, hành hung; xây dựng và thử nghiệm, triển khai mô hình tự phòng, tự quản, tự bảo vệ về an ninh trật tự tại các bệnh viện; Cử cán bộ tuần tra, bảo vệ đảm bảo an ninh trật tự tại các bệnh viện lớn, có lượng người đến đông và năng lực chuyên môn của các nhân viên bảo vệ còn hạn chế; Thiết lập mạng lưới đường dây nóng của lực lượng Cảnh sát cơ động và cơ quan công an gần nhất cho Bệnh viện và điểm nóng hay xảy ra mất an ninh trật tự bệnh viện trên địa bàn để kịp thời gọi và hỗ trợ khẩn cấp trước các tình huống nguy cơ mất an ninh, trật tự.

3. Chế độ bảo hiểm nghề nghiệp cho cán bộ y tế:

Bộ Y tế xin tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ nghiên cứu đề xuất bổ sung vào Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) về bảo hiểm nghề nghiệp cho cán bộ y tế; trách nhiệm của người bệnh, người dân đối với dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; nghiêm cấm hành vi xâm phạm, đe dọa thầy thuốc khi thi hành nhiệm vụ; chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm, đe dọa nhân viên y tế khi thi hành nhiệm vụ,…

 

Kiến nghị số 06: Đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 như sau: Đối với hoạt động y tế dự phòng, nâng cao sức khỏe, dân số, an toàn thực phẩm, hoạt động của các trạm y tế xã, phường, thị trấn thuộc Trung tâm y tế đa chức năng; thực hiện giao dự toán theo định mức biên chế, tiền lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo lương. Bổ sung nội dung tại điểm b, khoản 3 Điều 26 theo hướng: Quỹ khám bệnh, chữa bệnh được sử dụng để chi trả cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp trong khám bệnh, chữa bệnh tại các đơn vị.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Đối với kiến nghị thực hiện giao dự toán theo định mức biên chế, tiền lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo lương:

Tại khoản 1 Điều 27 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí để thực hiện các hoạt động chi thường xuyên cho các đơn vị được giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ y tế dự phòng bao gồm: Chi tiền lương và các khoản đóng góp theo lương cho viên chức, người lao động do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công được xác định trên cơ sở số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền giao để thực hiện nhiệm vụ cung cấp y tế dự phòng, nâng cao sức khỏe, dân số, an toàn thực phẩm.

2. Đối với kiến nghị bổ sung nội dung tại điểm b, khoản 3 Điều 26 theo hướng Quỹ khám bệnh, chữa bệnh được sử dụng để chi trả cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp trong khám bệnh, chữa bệnh tại các đơn vị

- Quỹ hỗ trợ khám bệnh, chữa bệnh là quỹ xã hội, từ thiện được thành lập và hoạt động để hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn hoặc không có khả năng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh và các hoạt động khác phục vụ cho công tác khám bệnh, chữa bệnh. Theo khoản 1 Điều 78 Luật Khám chữa bệnh 2009 thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và người hành nghề mua bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Chính phủ tại các Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

- Do vậy việc sử dụng Quỹ khám bệnh, chữa bệnh để chi trả cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp là không đúng quy định của Luật Khám bệnh chữa bệnh và các mục tiêu hoạt động của Quỹ khám bệnh, chữa bệnh.

 

Kiến nghị số 07: Đề nghị ban hành quy định về cơ chế mua sắm trong tình huống mua sắm khẩn cấp trong trường hợp phòng chống dịch, thiên tai. Cần quy trách nhiệm rõ ràng, xác định rõ cơ quan đủ thẩm quyền để kiểm soát kê khai giá của doanh nghiệp làm căn cứ cho các cơ sở y tế thực hiện.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang được Chính phủ giao làm đầu mối sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu và bản dự thảo Luật đang được đăng tải công khai rộng rãi trên cổng thông tin điện tử để lấy ý kiến rộng rãi trong cả nước. Các địa phương, đơn vị, cử tri tổ chức nghiên cứu, góp ý và gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có căn cứ tổng hợp kiến nghị phối hợp với các Bộ ngành liên quan điều chỉnh sửa đổi Luật Đấu thầu phù hợp với thực tiễn và đúng quy định của pháp luật.

Kiến nghị số 08: Đề nghị Bộ Y tế sớm ban hành quy hoạch, kế hoạch cụ thể về hệ thống kiểm nghiệm để địa phương có định hướng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; ban hành chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Kiểm nghiệm tuyến tỉnh.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Triển khai thực hiện các quy định Luật Dược, Nghị quyết số 19-NQ/TW và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương khoá XII, ngày 05/11/2018, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 6693/QĐ-BYT thành lập Ban soạn thảo xây dựng Đề án quy hoạch hệ thống kiểm nghiệm, kiểm định Nhà nước về dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng. Ban soạn thảo đã tiến hành đánh giá thực trạng của hệ thống kiểm nghiệm thuốc, thực phẩm; đánh giá mức độ đáp ứng Thực hành tốt phòng thí nghiệm (GLP); xây dựng các dự thảo Đề án; tổ chức họp để thảo luận, lấy ý kiến góp ý của các đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan (các Sở Y tế, Trung tâm kiểm nghiệm các tỉnh, thành phố…) và hoàn thiện dự thảo quy hoạch hệ thống kiểm nghiệm, kiểm định Nhà nước về dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng. Bộ Y tế đã tiến hành đánh giá thực trạng của toàn bộ các đơn vị liên quan đến kiểm nghiệm, kiểm định chất lượng sản phẩm khác như thực phẩm, trang thiết bị y tế, hóa chất và bổ sung vào nội dung của Đề án. Đồng thời, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2166/QĐ-BYT ngày 05/8/2022 về việc kiện toàn Ban soạn thảo xây dựng Đề án quy hoạch, trong đó phạm vi và đối tượng được mở rộng bao gồm hệ thống các cơ sở kiểm nghiệm, kiểm định Nhà nước về kiểm tra chất lượng toàn bộ sản phẩm hàng hóa thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế.

- Ngày 18/5/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 648/QĐ- TTg phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo đó đối tượng quy hoạch được mở rộng hơn với mục tiêu thu gọn đầu mối quản lý, bao gồm các cơ sở kiểm định, kiểm nghiệm, kiểm chuẩn, cơ sở giám định về chất lượng dịch vụ y tế, thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm, trang thiết bị y tế, vắc xin và sinh phẩm y tế. Hiện nay, Bộ Y tế đang khẩn trương rà soát, điều chỉnh nội dung của Đề án quy hoạch hệ thống các cơ sở kiểm nghiệm, kiểm định Nhà nước, dự kiến Đề án quy hoạch được trình Chính phủ vào tháng 12/2022.

 

Kiến nghị số 09: Việc thương thảo hợp đồng không được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có). Trong khi, giá dự thầu chỉ được công khai sau khi mở thầu, do đó việc quy định thương thảo hợp đồng không được làm thay đổi đơn giá dự thầu sẽ không tăng hiệu quả kinh tế trong quá trình lựa chọn nhà thầu. Đề xuất cho phép bên mời thầu giảm đơn giá dự thầu trong quá trình thương thảo nhằm tăng hiệu quả kinh tế trong quá trình lựa chọn nhà thầu.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan rà soát, đánh giá để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2019/TT-BYT ngày 11/7/2019 quy định việc đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế công lập, bảo đảm thông thoáng hơn, tăng hiệu quả kinh tế trong quá trình lựa chọn nhà thầu và đáp ứng kịp thời công tác điều trị cho bệnh nhân.

- Bộ Y tế sẽ sớm đăng tải dự thảo lên trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế để xin ý kiến rộng rãi, rất mong các địa phương, cử tri nhân dân nghiên cứu và cho ý kiến cụ thể để Bộ Y tế sớm tổng hợp, hoàn thiện và ban hành.

 

Kiến nghị số 10: (1) Đề nghị sớm trình Quốc hội thông qua Luật Dân số; sửa đổi, bổ sung Điều 10 Pháp lệnh Dân số năm 2003 vì có nội dung chưa đồng bộ, thống nhất theo tinh thần Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới chuyển đổi trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. (2) Sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế theo hướng các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh được phép khám, chữa bệnh vượt tuyến cho bệnh nhân ngoại trú và nội trú. (3) Ban hành Luật sức khỏe tâm thần.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Đối với kiến nghị sớm trình Quốc hội thông qua Luật Dân số; sửa đổi, bổ sung Điều 10 Pháp lệnh Dân số năm 2003

Thực hiện Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TWngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới; Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, ngày 08/6/2022, Bộ Y tế đã và đang tích cực triển khai xây dựng và hoàn thiện Hồ sơ Luật để trình Chính phủ và Quốc hội, Cụ thể:

- Bộ Y tế có Tờ trình số 760/TTr-BYT gửi Chính phủ về đề nghị xây dựng Luật Dân số xây dựng. Ngày 15/7/2022, Thường trực Chính phủ đã họp, cho ý kiến về đề nghị xây dựng Luật Dân số.

- Ngày 26/7/2022, Chính phủ đã họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7/2022, thông qua đề nghị xây dựng Luật Dân số, giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Dân số, gửi Bộ Tư pháp để lập đề nghị của Chính phủ, bổ sung dự án Luật Dân số vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2024.

- Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp tục hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật Dân số và tổ chức triển khai các bước theo quy trình xây dựng luật.

2. Đối với kiến nghị sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế theo hướng các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh được phép khám, chữa bệnh vượt tuyến cho bệnh nhân ngoại trú và nội trú:

- Luật Bảo hiểm y tế hiện hành cho phép các bệnh viện tuyến tỉnh (đa khoa và chuyên khoa) được thông tuyến khám chữa bệnh nội trú đối với người tham gia bảo hiểm y tế, chưa cho phép ngoại trú vì sẽ gây tình trạng quá tải đối với cơ sở khám chữa bệnh.

- Bộ Y tế đang tổng hợp tiếp thu các ý kiến để xây dựng sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế sao cho phù hợp với thực tế và phát huy, kế thừa những chính sách đang áp dụng nhằm bảo đảm quyền lợi cho người dân tham gia bảo hiểm y tế.

          3. Đối với kiến nghị ban hành Luật sức khỏe tâm thần:

Ngày nay khi xã hội càng phát triển, đời sống vật chất ngày càng được cải thiện và nâng cao, đi cùng với đó cũng là sự gia tăng không chỉ những bệnh lý về tim mạch, xương khớp… mà những bệnh lý về tâm thần cũng ngày được phát hiện nhiều hơn. Do vậy, để có thể chăm sóc toàn diện tới sức khỏe của mỗi người ngoài việc chăm lo tới sức khỏe về thể chất thì việc bảo vệ sức khỏe tâm thần là rất quan trọng. Bộ Y tế xin tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ tiếp tục nghiên cứu để tham mưu cho Chính phủ và Quốc hội trong thời gian tới.

 

Kiến nghị số 11: Đề nghị Bộ Y tế sớm sửa đổi, bổ sung, ban hành các Thông tư: (1) Thông tư số 05/2008/TT-BYT ngày 14/5/2008 về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy dân số - KHHGĐ ở địa phương, do các văn bản căn cứ ban hành và một số nội dung trong Thông tư đã được sửa đổi, thay thế không còn phù hợp với cơ cấu tổ chức, bộ máy làm công tác dân số ở địa phương hiện nay. Đề xuất giữ nguyên mô hình tổ chức: Tổng cục Dân số thuộc Bộ Y tế ; Chi cục Dân số - KHHGĐ thuộc Sở Y tế; Trung tâm Y tế đa chức năng tuyến huyện; viên chức dân số cấp xã và nhân viên Y tế - dân số thôn để chỉ đạo thực hiện thống nhất trong cả nước. (2) Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần. (3) Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của Trung tâm y tế đa chức năng, đặc biệt là cơ chế tài chính (hiện nay sau khi sáp nhập được hơn 3 năm nhưng chưa có văn bản quy định và hướng dẫn cụ thể để thực hiện).

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

          1. Đối với kiến nghị sửa đổi Thông tư số 05/2008/TT-BYT ngày 14/5/2008 về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy dân số - kế hoạch hoá gia đình ở địa phương:

Nghị quyết số 21-NQ/TWngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới đã chuyển đổi trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, đồng thời đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng cho công tác dân số trong thời gian tới. Do vậy, Bộ Y tế đã và đang rà soát, đánh giá việc thực hiện Thông tư số 05/2008/TT-BY và sẽ đề xuất, kiến nghị ban hành Thông tư thay thế Thông tư 05/2008/TT-BYT, trong đó có hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình để bảo đảm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 21/NQ-TW và Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

2. Đối với kiến nghị đề xuất giữ nguyên mô hình tổ chức: Tổng cục Dân số thuộc Bộ Y tế ; Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình thuộc Sở Y tế; Trung tâm Y tế đa chức năng tuyến huyện; viên chức dân số cấp xã và nhân viên Y tế - dân số thôn để chỉ đạo thực hiện thống nhất trong cả nước.

- Ngày 30/3/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 496/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, mạng lưới và cơ chế phối hợp liên ngành làm công tác dân số và phát triển các cấp, trong đó mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021-2025 là “giữ ổn định mô hình tổ chức bộ máy làm công tác dân số” và “tiếp tục giữ ổn định mô hình tổ chức bộ máy làm công tác dân số” cho giai đoạn 2026 - 2030. Theo đó, mô hình tổ chức làm công tác dân số hiện nay là: Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc Bộ Y tế; Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế; Trung tâm Y tế đa chức năng (trong đó có chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức về dân số); viên chức dân số cấp xã và cộng tác viên dân số-kế hoạch hóa gia đình thôn bản.

- Ngày 20/4/2021 Bộ Y tế đã có văn bản số 3059/BYT-TCDS gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tổ chức triển khai Quyết định số 496/QĐ-TTg ngày 30/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, các tỉnh, thành phố đã và đang xây dựng kế hoạch/đề án triển khai thực hiện Quyết định số 496/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

3. Đối với kiến nghị xây dựng ban hành Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần:

- Bộ Y tế đang xây dựng Thông tư Quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần và xin ý kiến góp ý dự thảo Thông tư tại đường link https://kcb.vn/du-thao/du-thao-thong-tu-quy-dinh-chuc-nang-nhiem-vu-to-chuc-bo-may-cua-cac-co-so-kham-benh-chua-benh-tam- than.html.

- Bộ Y tế rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cử tri các địa phương nói chung và cử tri tỉnh Bắc Giang nói riêng để dự thảo Thông tư sớm được hoàn thiện và ban hành.

4. Đối với kiến nghị xây dựng Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của Trung tâm y tế đa chức năng:

Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc Thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện theo quy định tại Thông tư số 07/2021/TT-BYT ngày 27/5/2021 của Bộ Y tế. Bộ Y tế đang tổng hợp các ý kiến góp ý về các khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Thông tư trên để có cơ sở trong việc đề xuất sửa đổi Thông tư đảm bảo phù hợp với thực tiễn và đúng quy định của pháp luật.

 

Kiến nghị số 12: (1) Đề nghị Bộ Y tế có văn bản cụ thể về quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh đối với sản phẩm thực phẩm chức năng quy định tại Phụ lục II Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ; (2) bổ sung đối tượng thạc sỹ được đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề KBCB chuyên khoa lần đầu theo hướng dẫn tại Công văn số 6797/BYT-KCB ngày 19/8/2021 của Bộ Y tế.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

          1. Về đề nghị Bộ Y tế có văn bản cụ thể quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh đối với sản phẩm thực phẩm chức năng quy định tại Phụ lục II Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ:

- Tại Điều 2 Luật An toàn thực phẩm, thực phẩm chức năng bao gồm thực
phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học; Tại Điều 3 và Điều 6 của Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm (sau đây gọi tắt là Nghị định 15/2018/NĐ-CP) có nhóm Thực phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ đến 36 tháng tuổi.

- Các quy định tại Luật An toàn thực phẩm và Nghị định đã quy định rõ các cơ sở sản xuất các loại thực phẩm trên phải có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, riêng đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe từ 01/7/2019 cơ sở sản xuất phải được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đạt yêu cầu Thực hành sản xuất tốt (GMP) thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Các thực phẩm chức năng nêu trên, trước khi lưu hành trên thị trường phải đăng ký bản công bố sản phẩm hoặc tự công bố sản phẩm; trước khi thực hiện quảng cáo, các loại thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ đến 36 tháng tuổi phải ký nội dung với cơ quan cấp Giấy tiếp nhận bản đăng ký công bố sản phẩm. Điều 5, 7, 27, 29 Nghị định số 15/2018/NĐ-CP đã quy định hồ sơ, trình tự, thẩm quyền tự công bố sản phẩm, đăng ký bản công bố sản phẩm, đăng ký nội dung quảng cáo sản phẩm, cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đạt yêu cầu Thực hành sản xuất tốt (GMP) thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Điều 2 của Nghị định số 155/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế quy định Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Tại khoản 5 Điều 37 và khoản 8 Điều 40 Nghị định 15/2018/NĐ-CP đã phân cấp: Bộ Y tế tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm, xác nhận nội dung quảng cáo, chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đạt yêu cầu Thực hành sản xuất tốt (GMP) đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe; Uỷ ban nhân dân các tỉnh cấp Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm, Giấy xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ đến 36 tháng tuổi; tiếp nhận bản tự công bố sản phẩm. Điều 40 Nghị định số 15/2018/NĐ-CP quy định thanh tra, kiểm tra trên địa bàn của tất cả các loại thực phẩm trừ đăng ký sản xuất, đăng ký công bố, đăng ký xác nhận nội dung quảng cáo, chất lượng sản phẩm, ghi nhãn sản phẩm.

Như vậy, các văn bản của Quốc hội, Chính phủ đã phân rõ trách nhiệm, thẩm quyền đối với Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân trong quản lý thực phẩm chức năng. Bộ Y tế đã có văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan quản lý thực phẩm trên địa bàn các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thực thi chức năng, nhiệm vụ về quản lý thực phẩm đã được quy định tại Luật và Nghị định trong đó có Thực phẩm chức năng.

2. Bổ sung đối tượng thạc sỹ được đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề KBCB chuyên khoa lần đầu theo hướng dẫn tại Công văn số 6797/BYT-KCB ngày 19/8/2021 của Bộ Y tế:

- Bộ Y tế đã ban hành Công văn 6797/BYT-KCB hướng dẫn việc cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định tại Nghị định số 109/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP. Do vậy, để bổ sung văn bằng chuyên môn là thạc sỹ cần đưa vào Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 109/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.

- Hiện nay, Bộ Y tế đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ Biên tập để xây dựng dựa thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số 109/2016/NĐ-CP và dự kiến trình Chính phủ trong năm 2022. Đối với kiến nghị của cử tri Bộ Y tế sẽ nghiên cứu, xem xét đưa vào dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 109/2016/NĐ-CP.

 

Kiến nghị số 13: Đối với văn bằng cử nhân Hộ sinh đại học hiện nay mới được đào tạo gặp rất nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn thực hành để cấp chứng chỉ hành nghề (do chưa có Hộ sinh đại học hướng dẫn thực hành). Đề nghị Bộ Y tế cho phép bác sỹ chuyên ngành Sản phụ khoa được hướng dẫn thực hành loại hình đào tạo nêu trên.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

          - Đào tạo cử nhân Hộ sinh trình độ đại học tại Việt Nam bắt đầu từ năm 2016. Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo. Đến nay đã có 05 cơ sở giáo dục đại học được phép đào tạo ngành cử nhân Hộ sinh trình độ đại học với tổng quy mô tuyển sinh hàng năm khoảng 200 chỉ tiêu. Năm 2020 đã có khóa cử nhân Hộ sinh trình độ đại học đầu tiên tốt nghiệp.

          - Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 659/QĐ-BYT ngày 25/2/2015 ban hành điều kiện chuyên môn bảo đảm đào tạo hộ sinh trình độ đại học, cao đẳng Việt Nam. Trong đó đã quy định tiêu chuẩn về giảng viên chuyên ngành đối với đào tạo cử nhân hộ sinh trình độ đại học phải được đào tạo chính quy về hộ sinh hoặc bác sĩ chuyên ngành Sản/Nhi.

          - Mặt khác, tại khoản 3 Điều 16 của Nghị định số 109/2016/NĐ-CP quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định: (1) Người Có chứng chỉ hành nghề; (2) Người có phạm vi hoạt động chuyên môn phù hợp với văn bằng của người thực hành, có trình độ đào tạo tương đương hoặc cao hơn người thực hành và có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh liên tục từ 3 năm trở lên”; (3) Người hướng dẫn thực hành cần có chứng chỉ hành nghề, có phạm vi hoạt động chuyên phù hợp với văn bằng của người đăng ký thực hành, có trình độ đào tạo tương đương hoặc cao hơn người thực hành và có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh liên tục từ 3 năm trở lên”.

Do vậy, về chủ trương Bộ Y tế tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ có văn bản trả lời cụ thể khi các đơn vị đề nghị hướng dẫn có đối tượng cử nhân Hộ sinh trình độ đại học đăng ký thực hành.

 

Kiến nghị số 14: Đề nghị bổ sung các quy định xử lý vi phạm hành chính ở lĩnh vực spa, thẩm mỹ.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Về mức xử phạt hành vi vi phạm đối với hoạt động của lĩnh vực thẩm mỹ đã được quy định tại mục 6, Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sử dụng thuốc, các chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể người (phẫu thuật, thủ thuật, các can thiệp có tiêm, chích, bơm, chiếu tia, sóng, đốt hoặc các can thiệp xâm lấn khác) làm thay đổi màu sắc da, hình dạng, cân nặng, khiếm khuyết của các bộ phận trên cơ thể (da, mũi, mắt, môi, khuôn mặt, ngực, bụng, mông và các bộ phận khác trên cơ thể người), xăm, phun, thêu trên da có sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm tại các cơ sở không phải là bệnh viện có chuyên khoa thẩm mỹ hoặc phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác có phạm vi hoạt động chuyên môn về chuyên khoa thẩm mỹ”.

- Như vậy Nghị định đã quy định cụ thể các hành vi vi phạm, mức xử phạt tương ứng đối với các hành vi vi phạm đối với các hoạt động không có giấy phép kinh doanh hoặc cơ sở kinh doanh không đảm bảo chất lượng tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân nhằm tăng tính răn đe.

 

Kiến nghị số 15: Đề nghị Bộ Y tế ban hành hướng dẫn chi tiết, đồng bộ về thực hiện cơ chế tự chủ đối với các cơ sở y tế (việc giao tự chủ chi thường xuyên chỉ phù hợp với mô hình Bệnh viện đa khoa còn các Trung tâm Y tế tuyến huyện không phù hợp, đề nghị xem xét sửa đổi).

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Trong quá trình xây dựng ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ Quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Y tế đã tham mưu, đề xuất một số nội dung cơ chế tài chính đặc thù của ngành Y tế để đưa vào Nghị định chung của Chính phủ, trong đó có cơ chế tự chủ đối với các Trung tâm y tế đa chức năng vừa có chức năng khám, chữa bệnh, vừa có chức năng dự phòng.

- Tại Mục 1 Chương III Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đã quy định tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực y tế. Tại Điều 27 - Phân bổ, giao dự toán đối với đơn vị nhóm 3 và Điều 28 -Phân loại mức độ tự chủ tài chính của Trung tâm y tế đa chức năng đã quy định rõ việc thục hiện cơ chế tự chủ đối với các Trung tâm y tế huyện.

- Hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng để ban hành Thông tư Hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó sẽ quy định cụ thể việc xác định mức độ tự bảo đảm chi thường xuyên đối với các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm cả các Trung tâm y tế tuyến huyện.

 

Kiến nghị số 16: Đề nghị Bộ Y tế bố trí kinh phí để các địa phương thực hiện những nội dung theo Quyết định số 2324/QĐ-BYT ngày 05/6/2020 của Bộ Y tế về Ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 (hiện nay mới được bố trí phương tiện tránh thai miễn phí).

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Ngày 28/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký, ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030. Trong đó, tại mục III, Điều 1, quy định “Ngân sách Trung ương tiếp tục bảo đảm đủ chi phí dịch vụ kế hoạch hóa gia đình bao gồm cả phương tiện tránh thai cấp cho người dân tại các địa phương có mức sinh cao và đối tượng ưu tiên”. Căn cứ Quyết định số 588/QĐ-TTg, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2324/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình Điều chỉnh mức sinh đã được Thủ tướng phê duyệt.

- Tuy nhiên, tại Điều 2 Quyết định số 820/QĐ-TTg ngày 28/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ: “Cho phép Bộ Y tế chuyển một số nhiệm vụ thường xuyên của Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016-2020 thành nhiệm vụ của ngân sách địa phương và Quỹ Bảo hiểm Y tế như đề nghị của Bộ Tài chính tại Công văn số 4743/BTC-HCSN ngày 11/5/2021”.  Tại điểm (3) phần b) khoản 2.3 mục I Công văn số 4743/BTC-HCSN của Bộ Tài chính: “Trình Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ Y tế tiếp tục sử dụng phương tiện, thuốc tránh thai đã mua để cấp miễn phí, thực hiện tiếp thị xã hội cho các đối tượng theo quy định; sau khi sử dụng hết số lượng tồn kho, đề nghị ngân sách địa phương đảm bảo nguồn để triển khai thực hiện”.

- Vì vậy, theo Quyết định số 820/QĐ-TTg ngày 28/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc bố trí kinh phí để các địa phương thực hiện nội dung theo Quyết định số 2324/QĐ-BYT ngày 5/6/2020 của Bộ Y tế, thì việc triển khai Kế hoạch hành động thực hiện chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng đối tượng đến năm 2030 sẽ do ngân sách địa phương đảm bảo.

Kiến nghị số 17: Đề nghị Bộ Y tế sớm sửa đổi, bổ sung, ban hành các Thông tư: Thông tư số 07/2015/TT-BYT ngày 03/4/2015 của Bộ Y tế về cơ chế thanh toán khi triển khai danh mục kỹ thuật thí điểm trước khi phê duyệt chính thức. Thông tư số 43/2013/TT-BYT về xây dựng bổ sung cơ cấu giá phẫu thuật sử dụng phương pháp vô cảm gây tê. Thông tư hướng dẫn triển khai Nghị định 98/2021/NĐ-CP của Chính phủ và hướng dẫn mua sắm đối với các trang thiết bị chưa có giá kê khai trong giai đoạn hiện nay.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

          1. Đối với kiến nghị sửa đổi, bổ sung Thông tư số 07/2015/TT-BYT ngày 03/4/2015 của Bộ Y tế về cơ chế thanh toán khi triển khai danh mục kỹ thuật thí điểm trước khi phê duyệt chính thức và Thông tư số 43/2013/TT-BYT về xây dựng bổ sung cơ cấu giá phẫu thuật sử dụng phương pháp vô cảm gây tê:

          Bộ Y tế xin tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ tổng hợp các khó khăn, vướng mắc, các điểm chưa phù hợp của các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện 02 Thông tư trên để làm căn cứ đề xuất xây dựng điều chỉnh Thông tư cho phù hợp với thực tiễn và đúng quy định của pháp luật.

2. Đối với kiến nghị xây dựng Thông tư hướng dẫn triển khai Nghị định 98/2021/NĐ-CP của Chính phủ và hướng dẫn mua sắm đối với các trang thiết bị chưa có giá kê khai trong giai đoạn hiện nay:

- Căn cứ quy định tại khoản 1 và 2 Điều 45 Nghị định 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế thì việc công khai thông tin giá trang thiết bị y tế không bao gồm thông tin phân nhóm hàng hóa nên Bộ Y tế chưa có cơ sở để yêu cầu các đơn vị thực hiện công khai thông tin.

- Hiện nay, Bộ Y tế đang nghiên cứu tham mưu đề xuất với Chính phủ sửa đổi Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế đảm bảo phù hợp hơn với thực tế và theo yêu cầu quản lý.

 

Kiến nghị số 18: Hiện nay có văn bản yêu cầu kê khai và phải được phê duyệt giá dịch vụ kĩ thuật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn các cơ sở y tế tư nhân về xây dựng giá và công khai giá dịch vụ khám chữa bệnh. Đề nghị Bộ Y tế xem xét, hướng dẫn.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Theo quy định tại điểm 5 Điều 88 Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân được quyền quyết định và phải niêm yết công khai giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh”.

- Luật Khám bệnh, chữa bệnh không giao Bộ Y tế hướng dẫn cơ sở y tế tư nhân xây dựng giá dịch vụ khám bệnh chữa bệnh, do vậy không có cơ sở để Bộ Y tế hướng dẫn nội dung này. Đối với việc niêm yết và công khai giá, các cơ sở y tế tư nhân thực hiện theo quy định và hướng dẫn của Bộ Tài chính.

 

Kiến nghị số 19: Đề nghị Bộ Y tế có hướng dẫn các cơ sở y tế thực hiện mua các vị thuốc cổ truyền chưa có Giấy đăng ký lưu hành (thực tế số lượng vị thuốc chưa có Giấy đăng ký lưu hành rất nhiều, chưa đảm bảo áp dụng Thông tư số 38/2021/TT-BYT ngày 31/12/2021 của Bộ Y tế, gây khó khăn cho hoạt động mua sắm, đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh); sớm ban hành quy định cụ thể về quản lý giá dược liệu, vị thuốc cổ truyền và quy định về kê khai giá dược liệu, vị thuốc cổ truyền để giảm chênh lệch về giá mua dược liệu, vị thuốc cổ truyền tại các cơ sở y tế.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

1. Về hướng dẫn các cơ sở y tế thực hiện mua các vị thuốc cổ truyền chưa có Giấy đăng ký lưu hành:

- Ngày 31/12/2021, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 38/2021/TT-BYT quy định về chất lượng dược liệu, vị thuốc cổ truyền, thuốc cổ truyền, thay thế Thông tư số 13/2018/TT-BYT. Thông tư số 38/2021/TT-BYT có nhiều nội dung điều chỉnh đến việc truy xuất nguồn gốc, xuất xứ; kiểm soát chất lượng của dược liệu, vị thuốc cổ truyền khi được cung ứng vào các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; đánh giá tư cách, năng lực, kinh nghiệm và chấm điểm các nhà thầu khi tham dự thầu gói thầu dược liệu, vị thuốc cổ truyền.

- Nội dung tại Khoản 4 Điều 13 Thông tư số 38/2021/TT-BYT quy định về tài liệu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ đối với vị thuốc cổ truyền gồm Giấy đăng ký lưu hành của vị thuốc cổ truyền. Đây là nội dung phù hợp với quy định tại Điều 54 và Điều 71 Luật dược số 105/2016/QH13 về đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền, vị thuốc cổ truyền. Tuy nhiên, đây cũng là vướng mắc của các đơn vị khi thực hiện việc đấu thầu mua sắm gói thầu vị thuốc cổ truyền.

- Bộ Y tế đã xây dựng dự thảo “Thông tư quy định chi tiết mẫu hồ sơ mời thầu mua sắm dược liệu và vị thuốc cổ truyền tại cơ sở y tế công lập”, tại nội dung dự thảo Thông tư đã có quy định chuyển tiếp, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị đang thực hiện gói thầu hoặc đã phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu trước ngày Thông tư có hiệu lực, đồng thời, nội dung quy định về tính phù hợp của dược liệu, vị thuốc cổ truyền tại dự thảo Thông tư cũng bảo đảm giải quyết vướng mắc của các đơn vị về Giấy đăng ký lưu hành của vị thuốc cổ truyền khi tổ chức đấu thầu mua sắm gói thầu vị thuốc cổ truyền. Dự kiến sẽ ban hành Thông tư trong thời gian gần nhất.

 

- Hiện nay, Bộ Y tế đã đăng tải trên website Cục Quản lý Y dược cổ truyền tại địa chỉ ydct.moh.gov.vn “Danh mục 863 dược liệu, vị thuốc cổ truyền đã được cấp Giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam (cập nhật đến ngày 30/5/2022)”, là căn cứ để các đơn vị xây dựng kế hoạch, tổ chức đấu thầu và thực hiện gói thầu dược liệu, vị thuốc cổ truyền tại cơ sở mình.

2. Quy định cụ thể về quản lý giá dược liệu, vị thuốc cổ truyền và quy định về kê khai giá dược liệu, vị thuốc cổ truyền:

- Bộ Y tế đã thường xuyên đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục Quản lý Y, Dược cổ truyền về giá các dược liệu, vị thuốc cổ truyền trúng thầu của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên toàn quốc. Tuy nhiên, giá dược liệu luôn có sự biến động lớn, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan (mùa vụ, thời tiết, khí hậu). Do đó, có rất nhiều dược liệu có giá thành cao, không thể xây dựng được giá kế hoạch theo quy định, dẫn đến thiếu dược liệu, vị thuốc cổ truyền cung cấp cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Trong thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã trao đổi Bộ Tài chính đề nghị bổ sung các quy định về quản lý giá dược liệu vào trong các văn bản Luật, văn bản dưới Luật về giá, vật giá; đồng thời đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có trách nhiệm trong việc quản lý giá dược liệu nuôi trồng trong nước.

 

Kiến nghị số 20: Đề nghị hệ thống mạng đấu thầu quốc gia sớm có phần mềm hỗ trợ đấu thầu qua mạng đối với các gói thầu y tế gồm nhiều phần riêng biệt.

Bộ Y tế xin trả lời như sau:

- Ngày 31/5/2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT và có hiệu lực từ ngày 01/8/2022. Phần mềm quy định có hỗ trợ đấu thầu qua mạng đối với các gói thầu y tế gồm nhiều phần riêng biệt.

- Căn cứ vào Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành, các địa phương, đơn vị nghiên cứu để tổ chức triển khai thực hiện.

 

 

[1] Công văn số 1919/BYT-BH ngày 22/3/2021; Công văn số 4107/BYT-BH ngày 20/5/2021 về việc thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế chậm niên độ quyết toán tài chính.

[2] Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004; Nghị định số 14/2012/NĐ-CP ngày 07/3/2012; Nghị định số 17/2013/NĐ-CP ngày 19/02/2013; Nghị định số 117/2016/NĐ-CP ngày 21/7/2016; Các Nghị định của Chính phủ quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 08/10/2019; Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011; Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 08/10/2019; Thông tư số 08/2013/TT-BNV ngày 31/7/2013; Thông tư số 04/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005; Thông tư số 25/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013; Thông tư số 07/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005 của Bộ Nội vụ.

[3] Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011; Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011; Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BYT-BNV-BTC. Tỷ lệ % gồm 6 mức: 20%, 30%, 40%, 50%, 60%, 70% trên mức lương ngạch (chức danh nghề nghiệp), bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên (nếu có). Cán bộ công tác tại các trạm y tế xã, tùy thuộc vào vị trí việc làm, công việc được cấp có thẩm quyền giao được hưởng mức phụ cấp ưu đãi theo nghề cao nhất bằng 40% trên mức lương ngạch (chức danh nghề nghiệp).

[4] Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009; Thông tư số 07/2013/TT-BYT ngày 08/3/2013.

[5] Nghị quyết 37/NQ-CP (thực hiện trong thời gian từ 29/3/2020 đến 08/02/2021); Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 quy định các mức phụ cấp theo 03 mức 300.000 đồng/người/ngày, mức 200.000 đồng/người/ngày, mức 150.000 đồng/người/ngày tương ứng với các đối tượng; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 08/6/2021 quy định Học sinh, sinh viên các trường ...được hỗ trợ tiền ăn và chi phí phục vụ nhu cầu sinh hoạt là 120.000 đồng/người/ngày và chế độ phụ cấp tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 miễn phí được 7.500 đồng/mũi tiêm/kíp tiêm chủng; Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ.

[6] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018; Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018; Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị, Kết luận số 42-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị, Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng


Thăm dò ý kiến