Huy động cả hệ thống chính trị và toàn dân chung tay giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh

15/10/2017 | 04:28 AM

 | 


Từ năm 2000 đến nay, tỉ số giới tính khi sinh ở Việt Nam liên tục tăng và tốc độ càng ngày càng khó kiểm soát. Tỉ số giới tính khi sinh đã tăng từ 106,2 bé trai/100 bé gái (năm 2000) lên 112,2 bé trai/100 bé gái (năm 2014); Năm 2015, tỷ số này là 112,8/100, năm 2016 là 112,2/100 bé gái.

Đây đang là vấn đề nóng của ngành Dân số, cần có sự chung tay giải quyết của toàn xã hội. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục gia tăng, ước tính đến năm 2050 Việt Nam sẽ phải đối mặt với viễn cảnh có khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam giới không tìm được vợ để kết hôn. 

 

Cảnh báo tình trạng “thừa nam thiếu nữ”

TS Lê Cảnh Nhạc, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế cho biết: Tại Việt Nam, mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) tuy diễn ra muộn hơn các nước châu Á khác nhưng tốc độ gia tăng nhanh chóng. Theo ông, nếu tình trạng này vẫn tiếp tục gia tăng, dự tính đến năm 2050 Việt Nam sẽ phải đối mặt với viễn cảnh có khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam giới không tìm được vợ để kết hôn. 

Việt Nam đang bị MCBGTKS khá nghiêm trọng, diễn ra ở cả thành thị và khu vực nông thôn. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta có nguồn gốc sâu xa là tình trạng bất bình đẳng giới, là các giá trị, quan niệm cũ về “trọng nam, khinh nữ” đã tồn tại và chi phối nếp nghĩ, nếp sống của người Việt ta cả nghìn năm qua. Nhiều người mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thừa kế tài sản. Tư tưởng lạc hậu này ảnh hưởng nghiêm trọng đối với xã hội và chống lại vấn đề bình đẳng giới. Hậu quả, nam giới sẽ bị dư thừa so với nữ giới trong cùng một thế hệ, họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời; sẽ diễn ra tình trạng trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân.

Việc thiếu hụt phụ nữ sẽ tạo ra những hậu quả không nhỏ về mặt xã hội và nhân khẩu học như gia tăng áp lực buộc các em gái phải kết hôn sớm, gia tăng đường dây buôn bán phụ nữ và các hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, các em gái gặp các nguy cơ phải kết hôn sớm, hoặc nam giới đến độ tuổi không tìm được phụ nữ để kết hôn. Di cư trong nước và quốc tế nhằm mục đích kết hôn cũng có thể gia tăng, dẫn đến nhiều bất ổn cho xã hội.

Tình trạng MCBGTKS đã được cảnh báo nhưng thực tế chúng ta lại chưa có các biện pháp hiệu quả để giải quyết thỏa đáng vấn đề này. Đáng nói là 50% số tỉnh, thành phố trong cả nước có tỷ số GTKS năm sau cao hơn năm trước. Năm 2014, có 15 trong số 63 tỉnh, thành phố có tỷ số GTKS là 115 trẻ nam/100 trẻ nữ; năm 2016, tăng lên 22 trong số 63 tỉnh, thành phố. Xu hướng này diễn ra không giống nhau tại các vùng trên cả nước.

Cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị

Giải quyết tình trạng MCBGTKS là vấn đề cấp bách, quan trọng, cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, toàn dân. Trong thời gian tới, với sự vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội sẽ từng bước kiểm soát tình trạng MCBGTKS, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức bình thường, góp phần chuyển hướng chiến lược từ kế hoạch hóa gia đình sang thời kỳ dân số và phát triển. 

Vấn đề MCBGTKS đã được Đảng và Nhà nước chỉ đạo rất cụ thể trong Chiến lược Quốc gia về Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình hành động quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 và các văn bản chính sách, hướng dẫn triển khai thực hiện khác. Tuy nhiên, mặc dù đã được chú trọng chỉ đạo, tăng cường về truyền thông, vận động và can thiệp, song tình trạng MCBGTKS vẫn có dấu hiệu gia tăng cả về tỉ số cũng như địa bàn, khu vực...

Giảm dần tình trạng mất cân bằng GTKS là việc làm cần thiết và cấp bách. Thời gian qua, những biện pháp nhằm giảm tỷ lệ mất cân bằng GTKS chưa đáp ứng được yêu cầu, hiệu quả chưa cao bởi phần lớn chỉ mới chú trọng về kỹ thuật, cấm siêu âm, chẩn đoán giới tính, cấm phá thai lựa chọn giới tính... Trong khi đó, biện pháp căn bản, cốt lõi cần tiếp tục kiên trì thực hiện là thay đổi được tư duy của người dân.

Để đưa tỷ số giới tính khi sinh trở về mức sinh học bình thường (103-107 trẻ trai/100 trẻ gái) là một việc khó và không thể ngày một ngày hai có thể làm được. Do đó, cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó đẩy mạnh truyền thông thay đổi hành vi, tập trung tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục người dân nhận thức được nguy cơ của việc MCBGTKS để mọi người tự giác thực hiện, không tham gia vào quá trình lựa chọn giới tính trước sinh. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát các trung tâm y tế công lập, các phòng khám y tế tư nhân nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm lựa chọn giới tính thai nhi, có các chế tài đủ mạnh để xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật…​


Thăm dò ý kiến