Những tiến bộ và điểm nhấn trong quản lý, điều trị đa u tủy xương
12/08/2025 | 20:49 PM



Những cập nhật quan trọng trong quản lý và điều trị đa u tủy xương - một bệnh lý huyết học ác tính, thường gặp ở người cao tuổi, có tiến triển phức tạp và tỷ lệ tái phát cao đã được các chuyên gia đến từ Bệnh viện Bạch Mai, Viện Huyết học Truyền máu Trung ương và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Giáo sư Hermann Einsele từ Cộng hòa Dân chủ Đức cùng nhau thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm. Chương trình diễn ra ngày 9/8 tại Bệnh viện Bạch Mai mang đến nhiều thông tin thiết thực cho người dân và các cán bộ chuyên nghành Huyết học - Truyền Máu.
Bức tranh tổng quan: Bệnh gia tăng, nhiều tiến bộ trong điều trị
Đa u tủy xương là bệnh lý ung thư máu phổ biến có cơ chế bệnh sinh bệnh lý phức tạp, gây phá huỷ tuỷ xương, tạo thành nhiều ổ tiêu xương, dẫn đến gẫy xương bệnh lý, rối loạn chức năng nhiều cơ quan trong cơ thể như suy thận, thiếu máu, suy giảm miễn dịch và có thể tử vong.
Đa u tuỷ xương chủ yếu gặp ở người lớn tuổi với tuổi chẩn đoán trung bình là 69. Cùng với già hóa dân số, dự kiến tới năm 2030 khoảng 80% bệnh nhân được chẩn đoán sẽ ở độ tuổi trên 65. Nhờ tiến bộ y học, tỷ lệ sống thêm của người bệnh đã tăng lên đáng kể so với trước, trong khi tỷ lệ tử vong có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, bệnh diễn biến phức tạp, mỗi lần tái phát mức độ đáp ứng và thời gian lui bệnh lại giảm dần. Việc phân tầng nguy cơ (ISS, R-ISS, R2-ISS) và vai trò của các đột biến di truyền như t(4;14), del(17p), gain(1q) đóng vai trò then chốt trong lựa chọn chiến lược điều trị.
Cá nhân hoá điều trị, tiếp cận liệu pháp Car-T, kháng thể đặc hiệu kép mở ra triển vọng điều trị mới
Sự kết hợp giữa phân tầng nguy cơ chính xác, lựa chọn phác đồ tối ưu ngay từ đầu, tận dụng vai trò của ghép tự thân và theo dõi MRD chặt chẽ đang định hình hướng đi mới trong quản lý và điều trị u đa tuỷ xương.
Cụ thể tại hội thảo, với nhóm thể trạng kém hoặc mắc nhiều bệnh đồng thời - bệnh nhân không đủ điều kiện ghép, các chuyên gia chỉ ra mục tiêu là cân bằng hiệu quả và an toàn, cá thể hóa phác đồ, điều chỉnh liều phù hợp, ưu tiên giảm độc tính và duy trì chất lượng sống. Các phác đồ hiện hành tại Việt Nam gồm VMP, DRd, D-VMP; Daratumumab khi kết hợp trong giai đoạn tấn công giúp nâng cao tỷ lệ đáp ứng và kéo dài thời gian lui bệnh.
Trường hợp lâm sàng minh họa từ Viện Huyết học Truyền máu Trung ương cho thấy bệnh nhân nữ 71 tuổi, nguy cơ cao, sau điều trị DRd đạt đáp ứng hoàn toàn, MRD âm tính, cải thiện rõ rệt lâm sàng và chất lượng sống. Tuy nhiên, ThS. BSCKII. Nguyễn Lan Phương, Viện Huyết học Truyền máu Trung ương khuyến cáo. “Hãy luôn thận trọng với nguy cơ huyết khối, nhiễm trùng, tình trạng xương và tình trạng bệnh trong suốt quá trình điều trị cho bệnh nhân không đủ điều kiện ghép tế bào gốc”.
ThS. BSCKII. Nguyễn Lan Phương, Viện Huyết học Truyền máu Trung ương
Ở nhóm bệnh nhân đủ điều kiện ghép tế bào gốc, mục tiêu cần củng cố vai trò ghép tự thân. Theo đó, BS. Phạm Văn Hiệu, Khoa Huyết học lâm sàng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chỉ ra: Cấy ghép tế bào gốc vẫn là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho những bệnh nhân đa u tủy xương mới phát hiện và có đủ sức khỏe để ghép. Việc điều trị trước khi ghép cho nhóm bệnh nhân này, nếu dùng các phác đồ có thuốc kháng thể đơn dòng (nhắm vào đích CD38), sẽ giúp tăng tỷ lệ đáp ứng và kéo dài thời gian bệnh không tiến triển. Cụ thể, ngay từ giai đoạn tấn công phác đồ gồm 4 thuốc (CD38 mAb + PI + IMiD + Dexa), sau đó ghép và duy trì để kéo dài lui bệnh. Nghiên cứu quốc tế cho thấy khoảng 15% bệnh nhân đạt lui bệnh kéo dài trên 8 năm sau ghép; tỷ lệ này tăng khi đạt đáp ứng hoàn toàn trước ghép. Mặt khác, ghép tandem (2 lần) không mang lại lợi ích về sống thêm kéo dài khi bệnh nhân đã đạt lui bệnh hoàn toàn sau ghép lần đầu.
BS. Phạm Văn Hiệu, Khoa Huyết học lâm sàng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Nhóm nguy cơ cao (chiếm 15-20% theo mSMART) có xu hướng tiến triển nhanh, tái phát sớm. Các chuyên gia khuyến cáo điều trị tấn công ngay từ đầu. “Các yếu tố di truyền (đột biến NST, Gen) ngày càng có vai trò quyết định trong bệnh đa u tuỷ xương. Nhóm bệnh nhân nguy cơ cao cần có nguyên tắc điều trị xuyên suốt: Sử dụng các phác đồ mạnh với mục tiêu đạt đáp ứng sâu nhất có thể qua mỗi giai đoạn. Người bệnh mới chẩn đoán khuyến cáo sử dụng 4 thuốc điều trị tấn công (Daratumumab phối hợp các phác đồ cổ điển). Ghép TBG tự thân đóng vai trò rất quan trọng ở tất cả các bệnh nhân đủ điều kiện, đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam và cần ghép sớm ở nhóm nguy cơ cao. MRD cần được đánh giá và theo dõi thường xuyên để điều chỉnh phác đồ, nhóm nguy cơ cao cần điều trị sớm hơn nhóm nguy cơ tiêu chuẩn khi tái phát”, TS. Hàn Viết Trung - Phó Giám đốc Trung tâm Huyết học và Truyền máu, Bệnh viện Bạch Mai nhấn mạnh.
TS. Hàn Viết Trung - Phó Giám đốc Trung tâm Huyết học và Truyền máu, Bệnh viện Bạch Mai
Đặc biệt, các chuyên gia cũng thống nhất các liệu pháp miễn dịch tế bào như kháng thể đặc hiệu kép BCMA, Teclistamab hay CAR-T (ide-cel, cilta-cel) đã mở ra triển vọng mới, đặc biệt cho bệnh nhân nguy cơ cao hoặc tái phát, kháng trị. Thử nghiệm quốc tế ghi nhận tỷ lệ đáp ứng toàn bộ tới gần 60%, thời gian sống thêm không tiến triển được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, tại Việt Nam, nhiều phác đồ và thuốc mới vẫn còn là thách thức khi cần được phê duyệt, và đặc biệt là chi phí điều trị.
Nguồn: Bệnh viện Bạch Mai
Những tiến bộ và điểm nhấn trong quản lý, điều trị đa u tủy xương
Tin liên quan
- Cảnh báo biến chứng nguy hiểm do zona thần kinh
- Hy hữu, đinh Kirschner gãy, di trú vào phổi sau phẫu thuật vai
- Bệnh viện Nam Thăng Long sẵn sàng nhiệm vụ y tế phục vụ sự kiện A80
- Bệnh viện Thận Hà Nội tổ chức thẩm định bệnh án điện tử
- Đảm bảo an toàn phòng chống dịch tại các cửa khẩu
- Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
- Bảo đảm công tác y tế phục vụ lễ diễu binh, diễu hành A80