HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH ĐẠO BỘ

Việt Nam đã mở rộng các dịch vụ phòng chống bệnh không lây nhiễm ở cơ sở

Thứ Sáu, ngày 25/10/2024 09:14

Bộ Y tế xây dựng Thông tư giúp người bệnh được tiếp cận với thuốc có chất lượng, thuốc có hiệu quả điều trị

Thứ Sáu, ngày 25/10/2024 07:31

Bảo đảm quyền, lợi ích của người tham gia bảo hiểm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

Thứ Năm, ngày 24/10/2024 08:56

Khai mạc Hội nghị Khoa học quốc tế về Kiểm nghiệm thực phẩm 2024

Thứ Năm, ngày 24/10/2024 07:42

Nghiên cứu khoa học y học phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội

Thứ Năm, ngày 24/10/2024 07:27

Hội nghị Y tế cơ sở thành phố Cần Thơ lần thứ I năm 2024

Thứ Tư, ngày 23/10/2024 08:56

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức tiếp đoàn đại biểu thành phố Matxcova, Liên bang Nga

Thứ Tư, ngày 23/10/2024 01:05

Đoàn đại biểu Bộ Y tế tham dự Kỳ họp lần thứ 75 của Tổ chức Y tế Thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương: Tổng giám đốc WHO chúc mừng Việt Nam được công nhận đã thành công trong thanh toán bệnh mắt hột

Thứ Ba, ngày 22/10/2024 12:17

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn tiếp đoàn đại biểu Chính phủ Hoa Kỳ

Thứ Ba, ngày 22/10/2024 09:39

Lãnh đạo Bộ Y tế tham dự phiên thảo luận về biến đổi khí hậu và sức khỏe trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 75 của Tổ chức Y tế thế giới Khu vực Tây Thái Bình Dương

Thứ Ba, ngày 22/10/2024 04:28

Việt Nam loại bỏ bệnh mắt hột khỏi vấn đề sức khỏe cộng đồng

Thứ Ba, ngày 22/10/2024 01:33

Đoàn đại biểu Bộ Y tế tham dự Kỳ họp lần thứ 75 của Tổ chức Y tế Thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương

Thứ Ba, ngày 22/10/2024 01:12

Bộ Y tế bổ nhiệm Viện trưởng Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế

Thứ Hai, ngày 21/10/2024 12:47

Phát triển các kỹ thuật chuyên sâu, tích cực tham gia hỗ trợ khám, chữa bệnh nhân đạo

Thứ Hai, ngày 21/10/2024 07:59

Bệnh viện Ung bướu Nghệ An được giao nhiệm vụ tuyến cuối khu vực Bắc Trung Bộ

Thứ Sáu, ngày 18/10/2024 10:00

Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác phúc lợi đoàn viên công đoàn giữa Công đoàn Y tế Việt Nam và Tổng Công ty cổ phần công trình Viettel giai đoạn 2024 – 2028

Thứ Sáu, ngày 18/10/2024 01:12

Khai mạc hội nghị Nha chu Châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 15

Thứ Năm, ngày 17/10/2024 07:08

Trường Cao đẳng Dược Trung ương Hải Dương: Tiếp tục xây dựng cơ chế chính sách đột phá thu hút chuyên gia, nhà khoa học về làm việc tại trường

Thứ Năm, ngày 17/10/2024 06:29

Phát động chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức về bệnh ung thư vú năm 2024

Thứ Tư, ngày 16/10/2024 08:10

Bộ Y tế trao quyết định bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo Viện Pasteur Nha Trang

Thứ Tư, ngày 16/10/2024 01:30

Xuất bản thông tin Xuất bản thông tin

Ung thư cổ tử cung: Phòng tránh hiệu quả với các kĩ thuật sàng lọc này?

01/12/2019 | 14:28 PM

 | 

Ung thư cổ tử cung là bệnh lý ác tính thường gặp từ độ tuổi 30 trở đi. Căn bệnh này đứng thứ hai trong các ung thư sinh dục ở nữ giới về tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong. Với các kĩ thuật sàng lọc ung thư cổ tử cung, bạn sẽ hoàn toàn có thể dự phòng được căn bệnh nguy hiểm này.

Đề án 818 hoạt động theo cơ chế xã hội hóa thực hiện cung cấp phương tiện tránh thai, hàng hóa và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản theo quyết định 718/QĐ- BYT đầu năm 2019 có nhấn mạnh đến việc chú trọng dự phòng, sàng lọc ung thư vú và ung thư cổ tử cung tại cộng đồng theo phương thức xã hội hóa.

Ước tính, tại nước ta có 5.146 phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung, tỷ lệ mắc mới ung thư cổ tử cung đã chuẩn hóa theo tuổi là 10,6/100.000 phụ nữ. Mỗi ngày có 7 phụ nữ tử vong vì ung thư cổ tử cung, 14 trường hợp mới được chẩn đoán mắc bệnh. Nếu ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm, khu trú tại chỗ thì tỷ lệ điều trị thành công là 93%. Tuy nhiên, khi bệnh đã phát hiện ở giai đoạn trễ, tỷ lệ trị khỏi chỉ đạt 15%.

Ung thư cổ tử cung dự phòng và tầm soát sớm sẽ điều trị hiệu quả

QĐ số 2402/QĐ –BYT ngày 10/6/2019 phê duyệt tài liệu "Hướng dẫn Dự phòng và kiểm soát ung thư cổ tử cung". Và theo tài liệu hướng dẫn của Đề án 818, ung thư cổ tử cung hoàn toàn có thể giảm gánh tử vong và gánh nặng nhờ việc dự phòng và sàng lọc.

Sàng lọc là quá trình áp dụng một biện pháp kỹ thuật hay xét nghiệm để phát hiện sớm một bệnh ở thời kỳ tiền lâm sàng mà bệnh đó chưa có biểu hiện những triệu chứng lâm sàng.

Các kĩ thuật sàng lọc ung thư cổ tử cung gồm:

1. Xét nghiệm tế bào cổ tử cung

Xét nghiệm tế bào học cổ tử cung là phương pháp thường dùng nhất để sàng lọc UTCTC do thoả mãn các điều kiện: độ nhạy khá, có thể lặp lại nhiều lần và đã chứng minh được tính hữu hiệu khi hạ thấp tần suất ung thư xâm lấn cổ tử cung ở các nước phát triển.

2. Xét nghiệm HPV

Hiện nay một số xét nghiệm xét nghiệm chẩn đoán có thể phát hiện các týp HPV nguy cơ cao sinh ung thư, chúng có thể được sử dụng trong lâm sàng như là xét nghiệm sàng lọc sơ cấp riêng biệt hoặc phối hợp với phương pháp khác.

Xét nghiệm HPV có độ nhạy cao và giá trị dự báo âm tính cao. Nếu xét nghiệm HPV (-) gần như không có nguy cơ hình thành CIN III trong vòng 5 năm sau đó. Điều này cho phép giãn thời gian sàng lọc và giảm số lần sàng lọc trong cuộc đời người phụ nữ. Điều kiện phụ nữ từ 25 – 65 tuổi, đã quan hệ tình dục, không có viêm âm đạo cấp, viêm phần phụ cấp; Phụ nữ đang hành kinh.

3. Quan sát cổ tử cung với acid acetic (VIA)

Phương pháp quan sát CTC với acid acetic (Visual Inspection with Acetic acid – VIA) đã được nghiên cứu và đề xuất như là phương pháp bổ sung/thay thế cho XN tế bào học ở những cơ sở y tế không làm được XN này.

Dung dịch acid acetic 3-5% gây đông vón protein tế bào và làm xuất hiện hình ảnh trắng với acid acetic ở vùng biểu mô bất thường. Đây là phương pháp dễ thực hiện, phù hợp trong sàng lọc và phòng chống ung thư cổ tử cung tại tất cả các tuyến y tế, đặc biệt đối với tuyến y tế cơ sở.

4. Quan sát cổ tử cung với Lugol (VILI)

Phương pháp VILI (Visual Inspection with Lugol’s Iodine) dựa trên nguyên lý bắt màu của glycogen có trong biểu mô vảy nguyên thuỷ và biểu mô dị sản vảy trưởng thành của cổ tử cung khi tiếp xúc với dung dịch Lugol chứa iod.

Các biểu mô dị sản vảy mới hình thành, mô viêm, mô tiền ung thư và ung thư cổ tử cung không chứa hoặc chỉ chứa rất ít glycogen, do đó không bắt màu dung dịch Lugol hoặc bắt màu không đáng kể, chỉ có màu vàng nhạt của dung dịch Lugol nằm trên biểu mô. Có thể thực hiện VILI riêng hoặc phối hợp ngay sau khi đã làm xét nghiệm VIA.

Ông Nguyễn Minh Tuấn, chuyên gia Đề án 818 cho hay, sàng lọc bằng tế bào cổ tử cung và/hoặc VIA/VILI hoặc xét nghiệm HPV đơn độc hoặc đồng thời với tế bào học. Chỉ định với phụ nữ trong độ tuổi 21-65, đã quan hệ tình dục, ưu tiên nhóm nguy cơ trong độ tuổi 30-50.

Phương pháp VIA/VILI chỉ được áp dụng cho các phụ nữ quan sát được vùng chuyển tiếp cổ tử cung. Sàng lọc bằng xét nghiệm HPV được tập trung thực hiện cho phụ nữ từ độ tuổi 25 – 65 với chu kỳ sàng lọc 3 năm.

Độ tuổi 21 – 65 sàng lọc theo phác đồ. Nếu sau 3 lần xét nghiệm sàng lọc liên tiếp có kết quả (-) thì có thể giãn thời gian sàng lọc mỗi chu kỳ thêm 1-2 năm. Trên 65 tuổi: có thể ngừng sàng lọc nếu có: Ít nhất 3 lần xét nghiệm sàng lọc có kết quả (-), hoặc Ít nhất 2 lần SL đồng thời bằng TBH và HPV có kết quả (-) Không có kết quả xét nghiệm bất thường trong vòng 10 năm trước đó./.

Nguồn: Báo Gia đình và xã hôi


Thăm dò ý kiến