HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH ĐẠO BỘ

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn dự hội nghị Câu lạc bộ Giám đốc bệnh viện các tỉnh phía Bắc năm 2024

Chủ Nhật, ngày 17/03/2024 12:23

Hội thảo triển khai công tác khoa học và công nghệ ngành Y tế 2024

Thứ Bẩy, ngày 16/03/2024 12:33

Điều động, bổ nhiệm Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Thứ Bẩy, ngày 16/03/2024 12:28

Đánh giá nhân lực y tế khoa học, chuẩn mực, nhưng có độ mở, linh hoạt

Thứ Năm, ngày 14/03/2024 08:57

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn tiếp Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản

Thứ Năm, ngày 14/03/2024 01:40

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan tham gia đoàn công tác của Thủ tướng Chính phủ dự Hội nghị cấp cáo ASEAN – Australia thăm chính thức Australia và NewZealand

Thứ Hai, ngày 11/03/2024 06:08

Thủ tướng thúc đẩy các tập đoàn hàng đầu New Zealand và thế giới đầu tư vào Việt Nam

Thứ Hai, ngày 11/03/2024 03:41

Hội nghị giao ban y tế dự phòng khu vực Tây Nguyên năm 2024

Chủ Nhật, ngày 10/03/2024 08:50

Việt Nam-Australia ký kết, trao đổi 12 văn kiện hợp tác quan trọng

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 07:14

Việt Nam-Australia nâng quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 07:11

Bộ Y tế bổ nhiệm hai Phó Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 03:29

Lễ đón Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm chính thức Australia theo nghi thức trọng thể nhất

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 02:16

Hội nghị FHH 21 cơ hội trao đổi các phương pháp nghiên cứu, phân tích tiêu chuẩn dược liệu

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 02:12

Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Đức Luận tham dự lễ tri ân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 01:48

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn hội đàm với Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Y tế Vương quốc Đan Mạch

Thứ Năm, ngày 07/03/2024 01:43

Đoàn công tác của Bộ Nội vụ và Y tế Đan Mạch thăm, làm việc tại Thái Bình

Thứ Tư, ngày 06/03/2024 09:13

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Phiên họp toàn thể Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN - Australia

Thứ Tư, ngày 06/03/2024 08:55

Bộ Y tế công bố quyết định chuẩn y chức danh Bí thư Đảng ủy Viện Chiến lược và Chính sách y tế nhiệm kỳ 2020-2025

Thứ Tư, ngày 06/03/2024 05:52

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự kỷ niệm 30 năm đường bay thẳng Việt Nam – Australia của Vietnam Airlines

Thứ Ba, ngày 05/03/2024 09:01

Học viện Quân y: Cập nhật kiến thức, ứng dụng công nghệ nâng cao chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bộ đội và Nhân dân

Thứ Ba, ngày 05/03/2024 01:38

Xuất bản thông tin Xuất bản thông tin

Các khuyến nghị cho cá nhân và cộng đồng về dinh dưỡng, thực phẩm trong phòng bệnh ung thư

17/08/2019 | 03:24 AM

 | 

Các khuyến nghị cho cá nhân và cộng đồng về dinh dưỡng, thực phẩm trong phòng bệnh ung thư

 

Khuyến nghị 1. Mỡ cơ thể Giữ trọng lượng cơ thể trong giới hạn bình thường

Khuyến nghị 1. Mỡ cơ thể

Giữ trọng lượng cơ thể trong giới hạn bình thường

Khuyến nghị 2. Hoạt động thể lực

Hàng ngày nên có cuộc sống năng động

Khuyến nghị 3.Thực phẩm và đồ uống làm tăng cân

Hạn chế tiêu thụ thực phẩm nhiều năng lượng. Tránh đồ uống có đường

Khuyến nghị 4. Thực phẩm nguồn gốc thực vật

Ăn nhiều thực phẩm nguồn gốc thực vật

Khuyến nghị 5. Thực phẩm nguồn gốc động vật

Hạn chế lượng thịt đỏ và tránh thịt chế biến sẵn

Khuyến nghị 6. Đồ uống có cồn

Hạn chế đồ uống có cồn

Khuyến nghị 7. Bảo quản, xử lý, chế biến thực phẩm

Hạn chế lượng muối tiêu thụ. Tránh các loại ngũ cốc bị mọc mầm hoặc các loại      đậu đỗ bị mọc mầm

Khuyến nghị 8. Bổ sung chế độ ăn

Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng bằng chế độ ăn chứ không ưu tiên dùng thực phẩm bổ sung

Khuyến nghị 9. Bú mẹ

Mẹ cho con bú, trẻ em cần được bú mẹ

Khuyến nghị 10. Bệnh nhân ung thư

Tuân theo các khuyến nghị để phòng bệnh ung thư

1. Khuyến nghị 1. Mỡ cơ thể

Giữ trọng lượng cơ thể trong giới hạn bình thường

1.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

- Chỉ số khối cơ thể nên trong khoảng 21 đến 23, phụ thuộc vào giới hạn bình thường của các quần thể khác nhau (đối với người châu Á nên 20-22)

- Đối với mục tiêu của một quốc gia, tỷ lệ quần thể quá cân hoặc béo phì không cao hơn tỉ lệ ở mức hiện tại, hoặc cần thấp hơn trong vòng 10 năm.

Một số điểm ở đây thêm vào phần đã được ghi trong chú thích ở phần mục tiêu phía trên

BMI người trưởng thành trung bình đối với các quần thể khác nhau dao động từ 21 đến 23, phụ thuộc vào khoảng biến đổi bình thường. Đến nay, khoảng biến đổi của cân nặng bình thường thường được xác định với BMI từ 18.5 và 22.9/24.9; thừa cân và béo phì được xác định khi BMI trên 23 hoặc trên 25. Tỉ lệ quần thể thừa cân hoặc béo phì không vượt quá mức hiện tại hoặc hy vọng giảm xuống, trong vòng 10 năm.

1.2. Khuyến nghị cho cá nhân

- Đảm bảo trọng lượng cơ thể trong suốt thời kỳ thiếu niên, vị thành niên tiến tới3 giới hạn thấp hơn của giới hạn BMI bình thường khi 21 tuổi.

- Duy trì cân nặng trong giới hạn bình thường từ khi 21 tuổi

- Tránh tăng cân và tăng vòng eo từ khi trưởng thành

Khuyến nghị trên không có nghĩa là những người khỏe mạnh có BMI trong giới hạn bình thường nhất thiết phải giảm BMI của họ. Tuy nhiên, những người tăng cân, thậm chí có BMI trong giới hạn bình htường, cần được khuyên quay về cân nặng ban đầu của họ

Những người có BMI trên mức bình thường được khuyên giảm cân để tiến đến giới hạn bình thường. Tránh tăng cân và tăng vòng eo trong suốt thời kỳ trưởng thành. Tác hại của việc tăng cân ở thời kỳ trưởng thành và duy trì cân nặng trong giới hạn bình thường cũng được khuyến nghị

Theo Tổ chức y tế thế giới, số đo vòng eo là 94 cm (37 inches) ở nam và 80 cm (31.5 inches) ở nữ (trên cơ sở quần thể) tương ứng với BMI ở xung quanh 25, trong khi vòng eo 102 cm (40.2 inches) ở nam và 88 cm (34.6 inches) ở nữ tương ứng với BMI xung quanh 30. Đối với người châu Á, số đo vòng eo  là 90 cm (35.4 inches) đối với nam và 80 cm (31.5 inches) đối với nữ tương ứng với giá trị BMI ở xung quanh 25.

1.3. Hướng dẫn thực hiện

Lời khuyên này có thể đạt được bằng cách vận động năng động trong suốt cuộc đời và bằng cách chọn chế độ ăn dựa trên các thực phẩm có năng lượng đậm độ thấp và tránh đồ uống có đường

Những người có chỉ số BMI vượt quá giới hạn bình thường cần được các chuyên gia có trình độ tư vấn để quay lại cân nặng trong giới hạn bình thường

2. Khuyến nghị 2: Hoạt động thể lực

Hoạt động thể lực

Cần có hoạt động thể lực năng động hàng ngày

2.1. Mục tiêu sức khoẻ cộng đồng

- Tỉ lệ quần thể có lối sống tĩnh tại cứ 10 năm lại tăng gấp đôi. Mức độ hoạt động thể lực trung bình trên 1.6

Đối với một cộng đồng, cần phấn đấu để tỷ lệ quần thể có lối sống tĩnh tại cứ 10 năm là tăng lên gấp đôi. Mục tiêu này nhằm để hướng dẫn cho các chính sách quốc gia và các cộng đồng, đặc biệt là những nơi hiện đang tăng nhanh lối sống tĩnh tại. Mục tiêu này có giới hạn thời gian. Mức độ hoạt động thể lực trung bình trên 1.6. PALs trung bình đối với nhóm người thu nhập cao là 1.4 và 1.6. PALs đối với những người trong giới hạn BMI bình thường khoảng  1.6. Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh mục tiêu là tăng PAL lên mức 1.6. Mức 1.7 và hơn nữa đã đạt được ở những người tập thể thao và thường xuyên hoạt động thể lực.

2.2. Khuyến nghị cho cá nhân

Hoạt động thể lực ở mức trung bình, tương ứng với việc đi bộ nhanh 30 phút mỗi ngày

Khi đã quen, mục tiêu hoạt động thể lực mức trung bình 60 phút hoặc hơn, hoặc hoạt động thể lực mức độ nặng 30 phút mỗi ngày

- Hạn chế thói quen tĩnh tại như xem ti vi

- Thuật ngữ ‘tĩnh tại’ ám chỉ PAL <= 1.4. PAL là cách đại diện cho mức độ hoạt động thể lực trung bình hàng ngày. PAL được dùng để tính toán tổng số năng lượng tiêu thụ bằng cách nhân với tốc độ chuyển hóa cơ bản

- Có thể phối hợp với các hoạt động ngành nghề, đi lại, việc nhà, hoặc hoạt động lúc nhàn rỗi

- Như vậy bởi hoạt động thể lực trong khoảng thời gian dài hơn và cường độ mạnh hơn thì có lợi hơn

Có chế độ hoạt động thể lực ở mức độ vừa phải, tương ứng với đi bộ nhanh 30 phút mỗi ngày. Khi đã quen, tăng lên 60phút hoặc hơn, hoặc hoạt động thể lực mức độ mạnh 30 phút mỗi ngày. Những khuyến nghị này liên quan với nhau. Đầu tiên bắt nguồn từ các bằng chứng liên quan đến ung thư. Thứ hai, bắt nguồn từ các bằng chứng liên quan đến thừa cân và béo phì, và bản thân cũng là nguyên nhân gây một số ung thư. Hạn chế thói quen tĩnh tại như xem tivi. Trẻ em thường xem tivi trên 3giờ một ngày, và thường dễ bị tiếp xúc với các thực phẩm quảng cáo có năng lượng cao, đồ uống có đường trên tivi.

Bảng dưới đây chỉ ra cách làm thế nào có được mức độ hoạt động thể lực duy trì sức khỏe (PAL). Bảng này đưa ra lời khuyên về ảnh hưởng của giai đoạn cụ thể về hoạt động về mức độ hoạt động thể lực tổng thể. Tăng cường hoạt động thể lực có thể thu được bằng nhiều cách.

Do vậy với một người PAL là 1.6, có hoạt động thể lực ở mức độ vừa phải 30 phút hàng ngày sẽ tăng PAL lên gần 1.7.

cac-khuyen-nghi-cho-ca-nhan-va-cong-dong-ve-dinh-duong-thuc-pham-trong-phong-benh-ung-thu-1

2.3. Hướng dẫn thực hiện

Hầu hết mọi người có thể kết hợp để tạo dựng cho việc thực hiện các hoạt động thể lực thường xuyên mức độ vừa, mạnh trong cuộc sống hàng ngày. Không nhất thiết phải có 30phút liên tục mỗi ngày tham gia hoạt động thể lực mức vừa phải/trung bình. Ví dụ đi bộ, đi bộ nhanh một phần hoặc toàn bộ trên đường từ nhà đến nơi làm việc hoặc ở trường, nơi công cộng, giờ nghỉ đi bộ vào giữa ban ngày, hoặc buổi tối, dùng cầu thang thay vì thang máy. Tương tự như vậy, áp dụng cho hoạt động thể lực mức độ trung bình hay vừa phải. Sự lựa chọn tốt nhất cho hoạt động thể lực mức độ mạnh/nặng mà được cả gia đình và cá nhân ưa chuộng là bơi, chạy, khiêu vũ, rowing, đi xe đạp, leo núi, tập aerobic, trò chơi tập thể như bóng đá, cầu lông. Luyện tập cân bằng và sự dẻo dai/Resistance cũng rất có lợi. Một số môn thể thao như golf không phải là hoạt động mạnh. Những người có công việc tĩnh tại cần được quan tâm đặc biệt để tạo hoạt động thể lực mức độ vừa và mạnh trong cuộc sống thường nhật của họ. Tránh thời gian dài có các hành vi tĩnh tại như xem tivi cũng rất cần thiết. Hành vi này thường liên quan đến ăn nhiều thức ăn có đậm độ năng lượng cao và đồ uống có đường. Một hiểu nhầm thường thấy là thể thao hoặc hoạt động thể lực là cách duy nhất cơ thể có hoạt động. Hoạt động thể lực bao gồm các hoạt động liên quan đến di chuyển (như đi bộ, đi xe đạp), việc nội trợ , và nghề nghiệp (chân tay và các hoạt động khác) cũng như các hoạt động giải trí.

3. Lời khuyên 3: Thực phẩm và đồ uống làm tăng cân

Hạn chế tiêu thụ/ăn các thức ăn có đậm độ năng lượng cao.

Tránh đồ uống có đường

3. 1. Mục tiêu cho sức khoẻ cộng đồng

-  Chế độ ăn có đậm độ năng lượng trung bình xuống dưới 125 kcal/100 g

- Tiêu thụ trung bình nước uống có đường của quần thể tăng gấp 2, cứ sau mỗi 10năm.

Đậm độ năng lượng trung bình của bữa ăn giảm thấp khoảng 125 kcal/ 100 g.

Bữa ăn thích hợp có đậm độ năng lượng thấp được xác định là cung cấp xung quanh 125 kcal/100 g, ngoại trừ đồ uống. Điều này tất nhiên là bao gồm các thực phẩm có đậm độ năng lượng cao hơn mức trung bình.

Tiêu thụ đồ uống có đường của quần thể cứ 10 năm  giảm đi một nửa.

Khuyến nghị này được thiết kế để hướng dẫn cho các chính sách của quốc gia, cộng đồng, đặc biệt là những nơi hiện tại đang tăng nhanh tỉ lệ tăng cân, thừa cân, béo phì đặc biệt trẻ em, người trẻ và tăng nhanh lượng tiêu thụ đồ uống có đường. Mục tiêu này cần đặt trong giới hạn thời gian. Những thành tựu của mục tiêu thách thức này chỉ ra sự hỗ trợ từ các cơ quan điều hành và từ các nhà máy chế biến nước ngọt.

3.2 Khuyến nghị cho cá nhân

- Ít tiêu thụ thức ăn có đậm độ năng lượng cao. Tránh đồ uống có đường

Thực phẩm có đậm độ năng lượng cao được định nghĩa ở đây là các loại thực phẩm cung cấp khoảng  225–275 kcal/100 g. Thực phẩm có lượng xơ và nước cao như rau và quả chín, ngũ cốc chế biến không dầu, mỡ, thường có đậm độ năng lượng thấp. Rau không có tinh bột, củ và quả cung cấp năng lượng khoảng từ 10 đến 100 kcal/100 g, ngũ cốc, đậu đỗ các loại giữa 60 - 150 kcal/100 g. Bánh mỳ và thịt nạc, thịt gia cầm, và cá thường cung cấp khoảng 100 - 225 kcal/100 g. Hầu hết thực phẩm chứa lượng đáng kể chất béo, dầu, hoặc đường thêm vào, bao gồm nhiều ‘đồ ăn nhanh’ như định nghĩa ở đây, cũng như nhiều đồ ăn chưa chuẩn bị (pre-prepared dishes) và snacks, đồ ăn nướng, đồ tráng miệng, và bánh kẹo thường có đậm độ năng lượng cao.

Khuyến nghị này cũng không có ý chỉ rằng tất cả thực phẩm, đồ ăn có đậm độ năng lượng cần phải tránh. Một số loại dầu thực vật nhất định, các loại hạt là nguồn chất dinh dưỡng quan trọng. Tiêu thụ các loại thực phẩm này không gắn với tăng cân và cũng như bản chất tự nhiên chúng được tiêu thụ ít.

Các đồ uống có đường được nói đến trong khuyến nghị này nhằm vào nước ngọt (bao gồm colas, sodas...).  Uống các đồ uống như thế này, với các cốc “cỡ lớn” đang tăng lên đáng kể ở nhiều quốc gia. Những đồ uống này tạo cơ chế cảm giác no của người, do vậy làm tăng cân là cảm giác. Tốt nhất là không uống. Lời khuyên này cũng bao hàm việc khuyên uống nước. Đồ uống ngọt có năng lượng thấp như cà phê, và trà (không cho thêm đường) thì tốt hơn. Nước quả, thậm chí không cho thêm đường, cũng vẫn có tác dụng tăng cân, vì vậy không nên uống với lượng lớn.

Thỉnh thoảng (ít khi) ăn ‘đồ ăn nhanh, như đã nói ở trên, “đồ ăn nhanh” không chỉ tất cả các loại thực phẩm (và đồ uống) mà có sẵn để tiêu dùng. Thuật ngữ chỉ các thức ăn sẵn, thuận tiện có xu hướng có đậm độ năng lượng cao và thường tiêu thụ thường xuyên với lượng lớn. Hầu hết các bằng chứng về “đồ ăn nhanh” là từ các nghiên cứu về humberger, thịt gà rán, khoai tây rán, đồ uống ngọt đang được bán ở các hệ thống cửa hàng trên khắp thế giới.

3.3. Cách thực hiện

Thực phẩm và chế độ ăn có đậm độ năng lượng thấp và tránh đồ uống có đường là lựa chọn tốt nhất đặc biệt đối với những người có lối sống tĩnh tại, Khuyến nghị trên đây sẽ đạt được bằng cách thay thức ăn có đậm độ năng lượng cao như các thực phẩm chế biến sẵn nhiều chất béo, đường và “đồ ăn nhanh” bằng các thực phẩm có đậm độ năng lượng thấp như các thực phẩm nguồn gốc thực vật bao gồm rau không tinh bột, quả và các loại ngũ cốc không chế biến tinh, thay các loại đồ uống có đường bằng các loại đồ uống không ngọt như nước, trà, cà phê không đường

Tổng số năng lượng của một bữa ăn liên quan đến đậm độ năng lượng của từng thực phẩm, tần xuất và lượng thực phẩm. Khả năng vật lý của dạ dày người và hệ tiêu hóa là giới hạn. Nhìn chung, hàng ngày con người thường tiêu thụ cùng lượng thực phẩm, được đo bằng khối lượng. Bữa ăn có đậm độ năng lượng có thể làm suy yếu điều hòa ngon miệng thông thường và do vậy dẫn đến năng lượng khẩu phần tăng lên.

Đồ uống có đường là vấn đề đặc biệt vì được uống với lượng lớn mà không cảm thấy no hay thỏa mãn. Bằng cách thay các loại thức ăn và đồ uống bằng các loại đậm độ năng lượng thấp như rau, quả, ngũ cốc chưa xay xát kỹ, đậu đỗ, nước, đồ uống không năng lượng, nguy cơ tăng cân sẽ giảm xuống, do vậy người ta hy vọng sẽ giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư.

4. Khuyến nghị 4. Thực phẩm nguồn gốc thực vật

Ăn nhiều thực phẩm có nguồn gốc thực vật

4.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Trung bình tiêu thụ rau không có tinh bột và quả chín ít nhất là 600g mỗi ngày.

Ngũ cốc không xay xát kỹ và/hoặc đậu đỗ, các loại thực phẩm khác là nguồn cung cấp chất xơ tự nhiên đóng góp vào lượng non-starch polysaccharide hàng ngày ít nhất là 25g

Quần thể tiêu thụ trung bình rau không tinh bột và quả chín ít nhất là 600 g hàng ngày. Mục tiêu này đại diện cho số lượng trên mức trung bình của khẩu phần ăn của quần thể. Rau không tinh bột không bao gồm các loại củ, rễ nhiều tinh bột như khoai tây và các sản phẩm của khoai tây.

Ở các cộng đồng, nơi mà người ta ăn ít nhất là 400 g và quả hàng ngày, mức tiêu thụ trung bình tương ứng ít nhất 600 g một ngày. Ngũ cốc chưa xay xát kỹ và/hoặc đậu đỗ các loại, các thực phẩm khác là nguồn chất xơ tự nhiên, góp phần tạo nên chất xơ khẩu phần ít nhất là 25g polysaccharide không phải là tinh bột hàng ngày. Tất cả các loại tinh bột, đậu đỗ các loại đều qua một số dạng chế biến trước khi đưa ra tiêu thụ. Nấu là một dạng chế biến. Mục tiêu này thiết kế để nhấn mạnh giá trị của ngũ cốc toàn phần, và các thực phẩm nguồn thực vật nói chung chứa lượng đáng kể chất xơ. Những loại này không bao gồm thực phẩm chế biến kỹ và bổ sung thêm chất xơ, với những loại thực phẩm này, hiệu quả bảo vệ vẫn còn thiếu bằng chứng. 25 g non-starch polysaccharide is tương ứng với khoảng 32 g chất xơ trong chế độ ăn.

4.2. Khuyến nghị cho  cá nhân

Ăn ít nhất 5 bữa (ít nhất 400 g) nhiều loại rau không tinh bột và quả chín hàng ngày. Ăn ngũ cốc tương đối chưa xay xát kỹ và đậu đỗ các loại trong mỗi bữa ăn. Hạn chế lượng thực phẩm có tinh bột xay kỹ.

 

Người ta ăn khoai củ như thực phẩm chính cần đảm bảo đủ khẩu phần rau không tinh bột, quả chín và đậu đỗ

1 Tốt nhất là từ các loại rau không tinh bột và quả chín bao gồm màu đỏ, xanh lá cây, vàng, trắng, tím và màu da cam, bao gồm cả các sản phẩm từ cà chua, các loại rau màu trắng như tỏi

2 Ngũ cốc xay xát chưa kỹ, và hoặc đậu đỗ góp phần tạo ra ít nhất 25g chất xơ hàng ngày

3 Những thức ăn này có đậm độ năng lượng thấp và thúc đẩy cân nặng ở mức khỏe mạnh

 

Khuyến nghị về ngũ cốc không xay xát kỹ và đậu đỗ các loại là để đảm bảo những thức ăn này là một đặc điểm của tất cả các bữa ăn. Thực phẩm nhiều tinh bột xay xát kỹ như bột mỳ để làm bánh mỳ, pasta, pizza; gạo trắng và các thực phẩm có nhiều mỡ và đường như bánh cake, pastries, biscuits (cookies), và các loại thực phẩm nướng khác. Nhóm khoai củ là thành phần chính đảm bảo khẩu phần đủ rau không tinh bột, quả chín và đậu đỗ. Ở nhiều nơi trên thế giới, hệ thống thực phẩm truyền thống cần được bảo vệ: cũng như các giá trị văn hóa, khả năng duy trì với điều kiện khí hậu và địa lý địa phương, các sản phẩm này thường dinh dưỡng hơn so với chế độ ăn định thay thế. Tuy nhiên, chế độ ăn tự phát (monotonous) đặc biệt nếu chỉ lượng nhỏ rau không có tinh bột, quả chín, đậu đỗ các loại, có xu hướng ít các chất dinh dưỡng, sẽ tăng nhạy cảm với nhiễm trùng, và có nguy cơ gây một số loại ung thư

Thực phẩm nguồn gốc thực vật khác

Một số thực phẩm nguồn gốc thực vật không phải mục tiêu hoặc khuyến nghị

Hạt các loại, dầu thực vật. Bằng chứng về hạt các loại, dầu và nguy cơ ung thư là không quan trọng. Tuy nhiên, hạt các loại là nguồn xơ khẩu phần, acid béo cần thiết, và các vitamin, chất khoáng. Mặc dù chúng nhiều năng lượng, và nên ăn ít nhưng cũng không liên quan đến tăng cân. Tương tự như vậy, khối lượng vừa phải dầu thực vật được sử dụng như dạng mỡ cơ bản dùng để nấu ăn.

Đường kính. Đường kính và các dạng sirô được tinh chế từ mía, ngô, củ cải đường. Các bằng chứng về đồ uống có đường đủ mạnh để đưa ra mục tiêu và khuyến nghị. Bằng chứng chỉ ra thực phẩm chưa lượng đáng kể đường thêm vào làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng vẫn hạn chế, và do vậy người ta cũng không đưa ra khuyến nghị. Tuy nhiên, có thể suy ra rằng  tiêu thụ thực phẩm thêm đường  cần được hạn chế.

4.3. Hướng dẫn thực hiện

Duy trì chế độ ăn dựa vào nguồn thực vật dễ thực hiện bằng cách lập kế hoạch bữa ăn và món ăn dùng nguồn thực vật hơn là thịt và các thực phẩm nguồn gốc động vật.

Thịt và các thực phẩm nguồn gốc động vật trở thành trung tâm của bữa ăn do kết quả của công nghiệp hóa, dẫn đến thịt trở nên rẻ hơn. Như đã trình bày ở trên, thực phẩm nguồn gốc thực vật được khuyến nghị làm cơ sở cho tất cả bữa ăn. Món ăn là có ít nhất 2/3 là thực phẩm nguồn gốc thực vật; thay vì ngũ cốc đã chế biến

1 suất ăn rau hoặc hoa quả khoảng 80g/3oz. Nếu ăn theo lượng khuyến nghị lượng rau quả ít nhất 400g hoặc 14oz/ngày

 

5. Khuyến nghị 5. Thức ăn/thực phẩm động vật

Hạn chế khẩu phần thịt đỏ, tránh thịt đã chế biến

 

5.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Quần thể tiêu thụ thịt đỏ trung bình không quá 300g/tuần, ăn rất ít thịt đã chế biến

Mục tiêu này được đưa ra theo mức tiêu thụ trong tuần để khuyến khích nhận thức rằng thịt đỏ không phải là thức ăn hàng ngày. Mục tiêu 300g/tuần tương ứng với mức tiêu thụ thịt đỏ người ta thấy ở mức độ nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng lên. Bằng chứng về thịt chế biến sẵn thậm chí rõ ràng hơn là thịt đỏ, và số liệu cung không chỉ ra với mức khẩu phần nào chắc chắn không liên quan đến nguy cơ.

Thực phẩm nguồn gốc động vật khác

Nhiều thực phẩm nguồn gốc động vật không phải là mục tiêu hoặc khuyến nghị

Thịt gia cầm, cá. Bằng chứng về thịt gia cầm và nguy cơ ung thư là không chắc chắn (đáng kể, quan trọng). Bằng chứng cá bảo vệ bệnh ung thư đại trực tràng rất hạn chế. (cá muối kiểu Hồng kông là trường hợp đặc biệt). Tuy nhiên người ăn thịt, khuyên nên chọn thịt gia cầm, cá các loại hơn là thịt đỏ. Thịt của thú hoang dại, chim, và cá những loài có thành phần dinh dưỡng khác với đông vật nuôi và nuôi công nghiệp cũng tốt hơn.

Trứng. Bằng chứng trứng và nguy cơ ung thư cũng chưa rõ, không quan trọng. Không có cơ sở đưa ra khuyến nghị tránh ăn trứng để phòng ung thư.

Sữa, pho mát, và các sản phẩm từ sữa. Bằng chứng về sữa bò, pho mát và thực phẩm giàu canxi và nguy cơ ung thư rất khó lý luận. Bằng chứng về ung thư đại trực tràng và ung thư tiền liệt tuyến dường như vẫn đang tranh cãi.

Mỡ động vật. Bằng chứng gợi ý rằng mỡ động vật là nguyên nhân gây ra ung thư đại trực tràng vẫn còn hạn chế và the Panel lồng ghép bằng chứng hạn chees gợi ý rằng mỡ động vật là nguyên nhân của béo phì và thừa cân vào các nghiên cứu về thực phẩm giàu năng lượng. Tốt nhất là hạn chế lượng mỡ động vật, vì mỡ động vật là một phần của thịt và cũng có trong thịt đã chế biến sẵn, và phần vì liên quan đến bệnh tim mạch.

5.2. Khuyến nghị cho cá nhân

Mọi người ăn thịt đỏ dưới 500g/tuần, rất ít thịt đã được chế biến sẵn

Thịt đỏ nói đến thịt bò, cừu, dê từ vật nuôi, bao gồm lượng trong thịt chế biến sẵn.

Thịt chế biến sẵn ám chỉ thịt bảo quản bằng cách hun khói, muối, thêm chất bảo quản, bao gồm trong thực phẩm đã chế biến.Những điểm chỉ ra đây là thêm vào các khuyến nghị trên

5.3. Hướng dẫn thực hiện

Có nhiều cách thưởng thức thịt và các thức ăn nguồn gốc động vật khác là một phần của chế độ ăn dựa vào các thực phẩm nguồn gốc thực vật.

Đối với người ăn thịt đỏ, lượng thịt đỏ cần được giứoi hạn bằng cách chọn thịt gia cầm, cá thay thế. Khi ăn thịt đỏ, ăn phần nạc tốt hơn. Tránh ăn các loại thịt đã qua chế biến. Những loạt thịt này thường có đậm độ năng lượng cao và có thể chứa một lượng muối lớn. Hơn nữa, những loại thịt này thường được bảo quản bằng cách hun khói, ướp muối hoặc dùng thêm các chất hoá học. Một số phương pháp bảo quản thực phẩm cũng được biết là sinh ra một số chất gây ung thư. Do vậy, tốt nhất là nên tránh dùng những loại thịt này

 

6. Khuyến nghị 6. Đồ uống có cồn.

Hạn chế lượng đồ uống có cồn

6.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng.

Số người uống nhiều hơn mức khuyến nghị cứ 10 năm giảm xuống 1/3

Trong bối cảnh lời khuyên này, giống như các lời khuyên khác thiết kế để hướng dẫn cho các chính sách quốc gia, mà hiện tại đang tăng tỉ lệ uống rượu vừa hoặc nghiện, bao gồm cả người trẻ. Nhấn mạnh của mục tiêu này nhằm vào những người thường uống rượu lượng vừa phải. Mục tiêu này có giới hạn thời gian. Thành tựu của mục tiêu này đòi hỏi sự hỗ trợ quan trọng từ các tổ chức điều hành, các nhà sản xuất đồ uống có cồn, và từ những người chủ quán bar và những cơ sở khác nơi mà rượu được bán và tiêu thụ. Các nhà hoạch định chính sách cũng được khuyến khích để tạo khung cho mục tiêu tùy theo hoàn cảnh cụ thể của họ

6.2. Khuyến nghị cá thể

Nếu dùng đồ uống  có cồn, giới hạn không quá 2 cốc/ngày đối với nam, và 1 cốc/ngày đối với nữ

-  Khuyến nghị này tính đến tác dụng bảo vệ bệnh mạch vành

-  Trẻ em và phụ nữ có thai không uống rượu

-  1 cốc chứa khoảng 10–15 grams  ethanol

 

Nếu uống rượu, giới hạn lượng rượu không trên 2 cốc/ngày đối với nam và 1 cốc/ngày đối với nữ. Tiêu thụ rượu lượng vừa phải được chỉ ra bảo vệ chống lại bệnh mạch vành so với không uống, với uống nhiều rượu ở một số trường hợp chỉ ra làm tăng nguy cơ. Tuy nhiên, không có cơ quan có quyền đưa ra khuyến nghị cụ thể cho tiêu thụ rượu để tránh bệnh mạch vành bởi ảnh hưởng xã hội, sinh lý, hành vi, sinh học của tiêu thụ nhiều rượu. Đối với người uống rượu, không hơn 2 cốc/ngày (nam) và không trên 1 cốc/ngày là khuyến nghị giới hạn. Mức giới hạn này được diễn tả bằng số lượng trong ngày, vì thường xuyên uống nhiều rượu (ví dụ, vào cuối tuần) trong khi lúc khác không uống rượu, là đặc biệt dễ dẫn đến những hậu quả gây hại.

 

6.3. Hướng dẫn thực hiện

Nói chung khuyến nghị tư vấn giới hạn trên là 2 cốc/ngày đối với nam và 1 cốc/ngày đối với nữ.

 

7. Khuyến nghị 7. Bảo quản, xử lý, chế biến

Giới hạn lượng muối tiêu thụ1

Tránh ngũ cốc, đậu đỗ bị mọc mầm

7.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Quần thể có lượng muối tiêu thụ từ các nguồn dưới 5 g (2 g natrium) trong 1 ngày

Cứ 10 năm, số người tiêu thụ trên 6g muối (2.4 g natrium) một ngày sẽ giảm một nửa

Hạn chế tối thiểu ăn aflatoxins từ ngũ cốc, đậu đỗ bị mốc

Hầu hết các phương pháp bảo quản, chế biến không phải là mục tiêu khuyến nghị. Một số la mối quan tâm của cộng đồng và một số được đề cập ở đây. Làm khô, lên men, đóng chai, hộp. Không có bằng chứng tin cậy về các phương pháp này có ảnh hưởng gì đến nguy cơ gây ung thư hay không. Khi chúng không liên quan đến sử dụng muối, chúng sẽ được ưa chuộng hơn là phương pháp thêm muối

Làm lạnh. Các bằng chứng dịch tễ liên quan đến việc làm lạnh và giảm nguy cơ ung thư dạ dày là quan trọng. Các báo cáo trước nhận định bằng chứng này rất thuyết phục. Nhóm nghiên cứu chịu trách nhiệm cho báo cáo này nhận định rằng ảnh hưởng của làm lạnh đến nguy cơ ung thư không phải là yếu tố nguyên nhân trực tiếp. Tuy nhiên, lợi ích của đông lạnh công nghiệp, cho vào tủ lạnh bao gồm tính sẵn có của rau quả có thể bị héo, bảo vệ chống lại sự xâm lấn của các vi sinh vật và giảm nhu cầu phải bảo quản bằng muối. Theo đó, bảo quản lạnh là có lợi.

Chất phụ gia, chất ô nhiễm. Không có bằng chứng dịch tễ học về mối liên hệ giữa phụ gia thực phẩm và chất ô nhiễm và nguy cơ gây ung thư.

Hấp, luộc, nướng, rang, rán, barbecuing (charbroiling). Trong khi các bằng chứng gợi ý rằng các thực phẩm nguồn gốc động vật khi rán và barbecue là nguyên nhân gây ung thư dạ dày vẫn còn hạn chế, có bằng chứng từ thực nghiệm chỉ ra các chất gây ung thư được hình thành khi thịt, thức ăn nguồn gốc động vật và một số thức ăn khác bị nấu ở nhiệt độ rất cao và khi chúng tiếp xúc trực tiếp dưới ngọn lửa. Trong khi các bằng chứng dịch tễ nói chúng là nguyên nhân gây ung thư rất hạn chế, nên thận trọng phòng tránh nấu thức ăn kiểu như vậy. Ảnh hưởng này không thấy khi thức ăn được nấu bằng nước luộc.

7.2. Khuyến nghị cá thể

Tránh tất cả các thực phẩm bảo quản bằng muối, thức ăn mặn, bảo quản thực phẩm không dùng muối

Hạn chế thực phẩm chế biến sẵn có thêm muối để đảm bảo khẩu phần dưới 7g/ngày (2.4g natrium). Không ăn ngũ cốc, đậu đỗ bị nấm mốc

1Phương pháp bảo quản không dùng muối bao gồm để lạnh, đông đá, làm khô, đóng chai, đóng hộp và lên men

Đối với hầu hết mọi người, khuyến nghị này nhằm giảm lượng muối tiêu thụ. Thông thường hầu hết lượng muối trong chế độ ăn nằm ở thực phẩm chế biến sẵn. Một số thực phẩm rõ ràng là mặn, những loại khác ví dụ như bánh mỳ không có vị mặn nhưng bánh mỳ và các sản phẩm ngũ cốc khác là nguồn muối chủ yếu trong các nước giàu và cùng với một số thực phẩm chế biến khác, trông có vẻ không mặn. Khi bảo quản thực phẩm ở nhà, nên sử dụng các phương pháp bảo quản hạn chế tối thiểu việc dùng muối. Tránh dùng muối trực tiếp.Không ăn ngũ cốc hoặc đậu đỗ bị nấm mốc

7.3. Hướng dẫn thực hiện

Trong tất cả các giai đoạn chế biến thực phẩm đến khi mua, dự trữ, nên chọn phương pháp giữ thực phẩm được tươi, và không sử dụng muối. Muối chỉ dùng thêm vị cho thực phẩm. Nhiều rau và gia vị khác cũng có thể được dùng thay thế. Sau một giai đoạn hạn chế dùng muối cảm giác vị cũng tăng lên, việc thích ăn muối sẽ giảm đi và sẽ thấy vị tự nhiên của thực phẩm. Nhãn thực phẩm nên đưa ra một số chỉ dẫn. Sản phẩm được quảng cáo là ‘giảm muối’ có thể vẫn còn nhiều muối.

Giữa thực phẩm được tươi bằng cách dùng tủ lạnh. Vứt bỏ thực phẩm khi có dấu hiệu bị nhiễm nấm mốc

 

8. Khuyến nghị 8. Thực phẩm bổ sung (thực phẩm chức năng)

Nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng thông qua chế độ ăn đơn thuần1

8.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Tăng tối đa số người đủ dinh dưỡng mà không cần bổ sung chế độ ăn

 

Ở nhiều nơi trên thế giới, thiếu dinh dưỡng vẫn còn là nạn, dịch. Trong trường hợp khẩn cấp, cần phải bổ sung chất dinh dưỡng cho các cộng đồng đó hoặc tăng cường vào thực phẩm để đảm bảo đủ tối thiểu tình trạng dinh dưỡng. Cách tiếp cận tốt nhất là bảo vệ hoặc tăng cường hệ thống thực phẩm địa phương. Tương tự như vậy đối với các nước giàu, nơi có cộng đồng có nguy cơ như người già, sống một mình bị bệnh mãn tính...

Dùng thuốc bổ sung có thể bảo vệ bệnh ung thư đại trực tràng và tiền liệt tuyến không nên khuyến nghị thường xuyên sử dụng. Nói chung, như đã trình bày, với nguồn thực phẩm và khả năng tiếp cận thực phẩm, người ta có thể thực hiện các khuyến nghị trong bối cảnh lời khuyên dinh dưỡng chung, và thực phẩm bổ sung thường là không cần thiết. Ngoài ra, trong bữa ăn, chất dinh dưỡng tồn tại ở dạng kết hợp thường không thấy trong các loại bổ sung đa chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, thực phẩm bổ sung thêm vào chế độ ăn bình thường tùy lúc có thể có lợi cho một số quần thể nhất định. Ví dụ, vitamin B12 cho người trên 50 tuổi khó hấp thu bổ sung vitamin B12, folic acid cho phụ nữ đang hoặc sẽ có thai, bổ sung vitamin D cho người không đủ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời (như người già, hoặc người da đen), người không tổng hợp đủ vitamin D từ ánh sáng mặt trời

Nhóm nghiên cứu cũng khuyên chống lại việc tự dùng thực phẩm bổ sung để bảo vệ một số loại ung thư nhất định. Kết quả về canxi và selen áp dụng cho từng trường hợp cụ thể và với liều cụ thể. Khuyến nghị để dùng thường xuyên cho quần thể nói chung có thể chỉ ra một cân bằng khác biệt giữa lợi ích và nguy cơ. Lời khuyên cho các cá thể có hoàn cảnh đặc biệt được đánh giá tốt nhất được thực hiện ở các cơ sở khám chữa bệnh với sự tư vấn của các chuyên gia có trình độ.

8.2. Khuyến nghị cá thể

Không khuyến nghị dùng thực phẩm chức năng hay bổ sung để phòng chống ugn thư

1 Điều này không phải luôn khả thi. Trong một số trường hợp bệnh tật, hoặc chế độ ăn thiếu, bổ sung vẫn có giá trị

8.5. Hướng dẫn thực hiện

Chọn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng thay vì dùng thực phẩm bổ sung. Nhu cầu có thể được đáp ứng bằng cách thực hiện các khuyến nghị trên, các khuyến nghị về thực phẩm, dinh dưỡng, hoạt động thể lực và thành phần cơ thể được thiết kế để giúp bảo vệ chống lại bệnh tật và tăng cường sức khỏe

9. Khuyến nghị đặc biệt:  Nuôi con bằng sữa mẹ

Bà mẹ cho con bú, trẻ em được bú sữa mẹ1

Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Đa số bà mẹ cho con bú hoàn toàn, trong vòng 6 tháng đầu2,3

9.1. Mục tiêu sức khỏe cộng đồng

Đa số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Duy trì cho con bú hoàn toàn vẫn thường thực hiện cho đến khi có sự xuất hiện của sữa công thức cho trẻ, loại này đã thay thế phần lớn việc cho con bú ở các nước phát triển và ở các quốc gia khác vào nửa sau của thế kỷ 20.

Trong khi thực hành cho con bú và nuôi con bằng sữa mẹ đang tăng lên ở nhiều nước trong những năm gần đây, hiện nay ở hầu hết các nước chỉ có số nhỏ các bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong vòng 4 tháng, và số lượng nhỏ hơn các bà mẹ cho bú hoàn toàn trong vòng 6 tháng.

Mục tiêu này đề ra tỉ lệ các bà mẹ cho con bú càng tăng càng tốt. Muốn đạt được mục tiêu này cần có sự hỗ trợ của các cơ quan điều hành, và các cơ sở sản xuất sữa công thức trẻ em. Các nhà hoạch định chính sách cần được khuyến khích để thực hiện mục tiêu trong hoàn cảnh cụ thể của họ. Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của bú mẹ hoàn toàn mà không có gì khác, kể cả nước (không cần vitamin nhỏ giọt như khuyến nghị ở một số địa phương). Có các tình huống đặc biệt, cho con bú được khuyến nghị thận trọng hoặc không khuyên. Tình huống đặc biệt chủ yếu là khi bà mẹ bị nhiễm HIV/AIDS. Trong trường hợp này, chiến lược toàn cầu của Liên hiệp quốc chỉnh sửa vào cuối năm 2006 nêu ra: ‘cho bú hoàn toàn khuyến nghị cho phụ nữa nhiễm HIV trong 6 tháng đầu trừ khi việc nuôi ăn chấp nhận được, khả thi, duy trì, có khả năng và an toàn cho mẹ và con”.

9.2. Khuyến nghị cá thể

Nhằm mục tiêu cho trẻ bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng và sau đó cho ăn bổ sung3

1Cho con bú bảo vệ cả bà mẹ và trẻ em

2 ‘Cho bú hoàn toàn’ có nghĩa là chỉ có sữa mẹ, không cho uống thêm bất kỳ thực phẩm hoặc đồ uống gì khác, bao gồm cả nước

3Thống nhất với Chiến lược toàn cầu liên hiệp quốc về nuôi ăn cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

9.3. Hướng dẫn thực hiện

Về phần cho con bú, nhóm nghiên cứu đã theo chiến lược toàn cầu của liên hiệp quốc về nuôi ăn trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, được thống nhất trên toàn thế giới bởi các tổ chức LHQ, chính phủ các nước, chuyên gia y tế, các tổ chức xã hội dân sự, và ngành công nghiệp sản xuất sữa trẻ em, thống nhất sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Do vậy, báo cáo này khuyến nghị bà mẹ cần cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

10. Khuyến nghị đặc biệt 2 Dành cho người mắc ung thư1

Tuân theo các khuyến nghị để phòng bệnh ung thư2

10.1. Khuyến nghị

Tất cả các bệnh nhân mắc ung thư đều được các chuyên gia dinh dưỡng chăm sóc. Nếu có thể làm được như vậy, và khi đó cần tuân theo các khuyến nghị về chế độ ăn, cân nặng nên có, và hoạt động thể lực

- Người mắc ung thư là người đang sống với chẩn đoán ung thư, bao gồm cả những người đã khỏi bệnh (recovered)

- Khuyến nghị này không áp dụng cho những người đang điều trị tích cực, đối tượng  to the qualifications

- Những người này bao gồm tất cả những người mắc bệnh ung thư, trước trong và sau điều trị tích cực

Trong trường hợp đặc biệt của bệnh nhân khỏi bệnh trong các cơ sở điều trị, nhóm nghiên cứu quyết định không tách biệt mục tiêu sức khỏe cộng đồng và các khuyến nghị cá thể. Tất cả các bệnh nhân mắc ung thư cần được các chuyên gia dinh dưỡng chăm sóc.

Hoàn cảnh của các bệnh nhân ung thư thay đổi rất nhiều. Tăng tầm quan trọng của thực phẩm, dinh dưỡng, hoạt động thể lực và thành phần cơ thể của các bệnh nhân ung thư, cần được tư vấn thích hợp, đầy đủ bởi các chuyên gia y tế được đào tạo cẩn thận. Lời khuyên phải cân nhắc trên cơ sở hoàn cảnh cụ thể của từng bệnh nhân. Những người có trải qua phẫu thuật, hóa tị, hoặc xạ trị cần có nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt; cũng như những người sau điều trị mà khả năng ăn hoặc chuyển hóa thức ăn bị thay đổi do quá trình điều trị; và những người ung thư giai đoạn cuối ngay lập tức cần tăng cân hoặc làm chậm quá trình giảm cân. Đó là những tình huống lâm sàng cần lời khuyên của chuyên gia y tế. Các bằng chứng không ủng hộ việc sử dụng thuốc bổ sung liều cao các vi chất dinh dưỡng là cách để cải thiện tình trạng. Người mắc ung thư cần tư vấn bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng, những người có thể đánh giá tính an toàn và hiệu quả của dùng thuốc bổ sung cụ thể và tư vấn có hành động thích hợp dựa vào kết quả nghiên cứu hiện tại với tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.

Tất cả các bệnh nhân ung thư cần tuân theo các khuyến nghị về chế độ ăn, cân nặng nên có và hoạt động thể lực. Cách tiếp cận chung này cho những người mắc ung thư. Có nhiều bằng chứng rằng hoạt động thể lực và các biện pháp khác kiểm soát cân nặng có thể giúp phòng ung thư tái phát, đặc biệt là ung thư vú. Những kết quả này cùng với các khuyến nghị trong báo cáo này. Người mắc ung thư có thể có những lợi ích sức khỏe và cảm giác kiểm soát khi hoạt động thể lực thường xuyên ở mọi mức độ mà họ có thể duy trì được.

10.2. Hướng dẫn thực hiện

Mục tiêu chung cúa khuyến nghị là “dừng ung thư trước khi nó bắt đầu”. Hỗ trợ quan trọng sẽ trao cho bệnh nhân ung thư, người quyết định tuân theo toàn bộ khuyến nghị chung. Cũng như có sự hỗ trợ cần thiết và cải thiện chất lượng cuộc sống của những người mắc ung thư, họ sẽ đồng thời giảm nguy cơ ung thư của mình

PGS.TS.BS Trần Văn Thuấn

(Giám đốc Bệnh viện K, Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam)

Nguồn: Báo Sức khỏe và đời sống


Thăm dò ý kiến