Loãng xương - căn bệnh âm thầm nhưng để lại hậu quả nặng nề
13/09/2025 | 07:21 AM



Loãng xương tiến triển lặng lẽ, ít triệu chứng, nhưng có thể gây gãy xương, tàn phế và tử vong, nhất là ở người cao tuổi.
Loãng xương là tình trạng xương giòn, yếu, dễ gãy do mất dần mật độ và cấu trúc. Bệnh phổ biến ở phụ nữ sau mãn kinh và người cao tuổi. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp loãng xương vào nhóm 10 bệnh mạn tính phổ biến nhất, ước tính có hơn 200 triệu người mắc.
Tại Việt Nam, tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh lên tới 20-30%, còn ở nam giới trên 50 tuổi khoảng 10-15%. Một nghiên cứu tại Hà Nội cho thấy, cứ 5 phụ nữ sau mãn kinh thì có 1 người bị loãng xương, đặc biệt sau tuổi 65. Hậu quả nặng nề nhất là gãy xương, phổ biến ở cổ xương đùi, cột sống và cổ tay. Khoảng 20-25% người cao tuổi bị gãy cổ xương đùi có thể tử vong trong năm đầu sau chấn thương.
Theo ThS.BS Dương Văn Quyền, Trưởng khoa Cơ xương khớp - Phục hồi chức năng, Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Phúc (Phú Thọ), loãng xương có thể phòng ngừa được. Người dân, đặc biệt phụ nữ sau mãn kinh và người cao tuổi, nên bổ sung canxi, vitamin D hợp lý, duy trì tập luyện đều đặn, tránh hút thuốc, hạn chế bia rượu. Việc khám sức khỏe định kỳ và đo mật độ xương có vai trò quan trọng trong phát hiện sớm, giúp điều trị kịp thời và giảm nguy cơ gãy xương.
Các bác sĩ cũng khuyến cáo: chỉ một cú ngã nhẹ cũng có thể gây gãy xương ở người loãng xương. Do đó, ngoài chế độ dinh dưỡng và luyện tập, cần chú ý phòng tránh té ngã, sắp xếp nhà cửa an toàn, đủ ánh sáng để bảo vệ sức khỏe xương khớp.
(Nguồn: vtv.vn)
Tin liên quan
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng dịp Tết Trung thu 2025
- WHO: Số ca tử vong do bệnh tả trên toàn cầu tăng 50% trong năm 2024
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá
- Mở ra hướng điều trị mới sau phẫu thuật thành công ung thư tụy toàn bộ
- Sáu trường hợp ngừng đóng bảo hiểm y tế vẫn được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh
- Hiện thực hóa hợp tác công tư giữa bệnh viện công và tư nhân
- Tăng tốc chuyển đổi số trong quản lý, chăm sóc bệnh nội tiết, đái tháo đường