Tọa đàm: “Giảm tải bệnh viện - Cam kết vì người bệnh”

06/02/2015 | 09:28 AM

 | 

Những thắc mắc, chia sẻ của người dân về vấn đề giảm quá tải bệnh viện được lãnh đạo Bộ Y tế giải đáp trong buổi tọa đàm trực tuyến sáng 6/2 trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Tháng 1/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án giảm quá tải bệnh viện (giai đoạn 2013-2020) với mục tiêu từng bước giảm tình trạng quá tải bệnh viện ở hai khu vực khám bệnh và điều trị nội trú; cơ bản khắc phục tình trạng nằm ghép vào năm 2015.

Phấn đấu hoàn thành mục tiêu trên, hiện nay nhiệm vụ “Giảm tải” được Bộ Y tế xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong 7 nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành. Mới đây, 14 bệnh viện đã ký cam kết chấm dứt tình trạng bệnh nhân nằm ghép, đảm bảo 1 bệnh nhân/giường bệnh, chậm nhất sau 48h nhập viện.

Đây thực sự là tín hiệu tốt cho nhiều người bệnh, minh chứng rõ nhất cho việc thực hiện giảm bớt tình trạng quá tải hiện nay.

Để kịp thời thông tin đến người dân về các công việc cụ thể Bộ Y tế đang triển khai nhằm quyết tâm hoàn thành mục tiêu chiến lược đã đề ra, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức cuộc Tọa đàm với chủ đề“Giảm tải bệnh viện - Cam kết vì người bệnh”.

Chương trình có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên; ông Nguyễn Văn Tiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội; cùng dự có đại diện Lãnh đạo các vụ, cục trực thuộc Bộ y tế và hai bệnh viện lớn là Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Việt Đức.

Chương trình sẽ được truyền hình trực tiếp lúc 10h sáng ngày 6/02/2015 trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (chinhphu.vn); truyền hình trực tiếp trên kênh truyền hình Quốc hội; phát thanh trực tiếp trên hệ thời sự VOV1 và được nhiều cơ quan thông tấn, báo chí đến tường thuật, đưa tin.

Mọi thắc mắc, chia sẻ của người dân có thể gửi thư tới địa chỉ hòm thư:Doithoai@chinhphu.vn hoặc số điện thoại: 080 48113.

Tọa đàm: “Giảm tải bệnh viện - Cam kết vì người bệnh, sáng 6/2.


BTV: Thưa ông Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, trong bối cảnh quá tải BV đang gây nhiều bức xúc cho người bệnh, ông đánh giá như thế nào về sự kiện 16 BV TƯ ký cam kết giảm tải BV?

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Văn Tiên: Khi nghe tin hơn 10 BV trung ương cam kết giảm tải không để Bệnh nhân nằm ghép chúng tôi rất mừng vì sự cố gắng tích cực của lãnh đạo BV, ngành Y tế. Trong các phiên họp của QH chúng tôi luôn chất vấn, nêu các vấn đề về việc mỗi chính sách, chủ trương chúng ta ban hành phải có chỉ tiêu, cam kết cụ thể chứ không chỉ nói chung chung rằng  sẽ thu hẹp phòng hành chính, mở rộng phòng khám, phòng điều trị để giảm tải mà phải có chỉ tiêu cụ thể, có thể định lượng được. Và những cam kết cụ thể không để bệnh nhân nằm ghép của hơn 10 BV trung ương là một tín hiệu đáng mừng trong nỗ lực giảm tải BV của ngành Y tế, là biện pháp quản lý Nhà nước rất hữu hiệu.

BTV: Xin hỏi Giám đốc BV Nhi Trung ương, chỉ cách đây khoảng nửa năm, BV luôn trong tình trạng quá tải trầm trọng, có thời điểm 3-4 bệnh nhân một giường, nhưng 4 tháng nay, BV đã duy trì mỗi bệnh nhân một giường. Làm thế nào mà BV có thể giảm tải một cách nhanh chóng như vậy?

Ông Lê Thanh Hải: Thực sự là hơn 4 tháng nay, BV Nhi Trung ương không còn bệnh nhân nằm ghép, như chúng ta vừa thấy trong phóng sự, vào mùa dịch sởi đầu năm 2014, với tình trạng bệnh nhân nằm ghép 3-4 cháu/giường khiến BV không đảm bảo được nhu cầu tối thiểu của người dân khi nằm viện. Kèm theo đó là tình trạng bệnh nhân bị lây nhiễm từ trong BV, từ người nhà sang bệnh nhân, từ nhân viên y tế sang. Số ngày nằm viện kéo dài, tình trạng bệnh nhân nặng lên thậm chí gây tử vong, đặc biệt, ảnh hưởng lớn tới nguồn kinh phí hoạt động của BV và xã hội.

Từ đó, chúng tôi đặt vấn đề liệu có tránh được nằm ghép tại BV Nhi Trung ương hay không. Và qua phân tích, đánh giá tình hình, tình trạng bệnh nhân cho thấy khoảng 30% bệnh nhân điều trị nội trú không cần thiết phải nằm tại BV Nhi Trung ương. Dựa trên suy nghĩ đó, chúng tôi thực hiện rất nhiều biện pháp tổng hợp để thực hiện giải quyết vấn đề tưởng đơn giản, dễ nhưng rất khó là nỗ lực của toàn bộ cán bộ BV cùng sự giúp đỡ của Bộ Y tế, nhà hảo tâm, bằng 3 nhóm giải pháp.

Thứ nhất, ở khu vực phòng khám, từ chỗ 30-40 phòng, chúng tôi xây thêm, hiện tại có 60 phòng khám.

Thứ hai, chúng tôi đánh giá lượng, nhu cầu bệnh nhân đến khám vào từng thời điểm trong ngày, tuần, tháng để sắp xếp lại đội ngũ cán bộ phù hợp để làm sao khi dân tới khám bệnh đáp ứng được ngay. Các bác sĩ, điều dưỡng ra trực tiếp khám tại đó phải là bác sĩ có kinh nghiệm, điều dưỡng giao tiếp tốt để làm sao cải cách hành chính ở đó, khiến thời gian khám, chờ xét nghiệm, làm thủ tục… giảm nhưng thời gian bác sĩ trực tiếp khám và tư vấn kéo dài hơn.

Từ chỗ mỗi bác sĩ khám 100 bệnh nhân/ngày, giảm xuống còn 40-50 bệnh nhân/ngày, để bác sĩ có thời gian tư vấn tốt hơn, người nhà hiểu được bệnh và chăm sóc cho con mình nếu phải điều trị tại nhà hoặc tuyến dưới.

Thứ ba, có một số nhóm bệnh nhân mà thầy thuốc và người nhà đang phân vân có nên điều trị ngoại trú hay chuyển về tuyến trước hay phải nhập viện (trường hợp chưa rõ ràng) chúng tôi thành lập thêm đơn vị daycare hay shortstay (lưu trú ngắn hạn) để trong thời gian 4-5 tiếng, các bác sĩ, điều dưỡng vẫn tiếp tục theo dõi bệnh nhân và đánh giá, chờ đợi kết quả xét nghiệm, nếu thấy nhất thiết cần nhập viện thì cho nhập, còn nếu có thể điều trị tại nhà thì hướng dẫn cho điều trị tại nhà. Đồng thời, lập đường dây tư vấn để trực tiếp sau vài ba tiếng gọi lại nắm tình trạng bệnh nhân, nếu thấy ổn thì tiếp tục điều trị như thế, để tình trạng bệnh nhân được đảm bảo. Trong trường hợp 4,5 tiếng hoặc 12 tiếng, 1 ngày sau nếu thấy diễn biến bệnh nhân bất ổn thì nhập viện  và các BV vệ tinh của BV Nhi Trung ương  hoặc những trường hợp ở Hà Nội có thể nhập lại  BV.

Trong khu nội trú, bằng tất cả sự giúp đỡ của Bộ Y tế và Chính phủ, chúng tôi triển khai thêm 300 giường bệnh có tính chất dành cho bệnh nhân cấp cứu và hồi sức. Bởi chúng tôi thấy rằng, tại BV Nhi Trung ương, hiện tại trường hợp bệnh nhân nhẹ không còn nhiều nữa, chủ yếu, khi đã chuyển lên BV Nhi Trung ương đều là bệnh nhân nặng, hoặc bệnh nhân khó. Với khoảng 1.500 giường thì có khoảng 400-500 bệnh nhân cần phải cấp cứu, hồi sức, chăm sóc đặc biệt.  Chính vì thế, thời gian qua, BV Nhi Trung ương đã tập trung rất nhiều nguồn lực về con người cũng như cơ sở vật chất để giải quyết đặc điểm của bệnh nhân khi chuyển lên BV Nhi Trung ương là BV chuyên khoa tuyến cuối của Bộ Y tế. Với cái đó, chúng tôi đã tập trung giải quyết được về cơ bản bệnh nhân nặng.

Ngoài ra là sự điều phối hợp lý số lượng bệnh nhân trong toàn BV. Chúng tôi đã yêu cầu đơn vị, phòng ban chức năng lên một thống kê số liệu bệnh nhân tại các khoa phòng tại các thời điểm sáng/trưa/chiều trước khi kết thúc ngày làm việc hành chính, dựa trên đó, phát hiện ra khoa nào có bệnh nhân có nguy cơ nằm ghép để điều phối sao cho mỗi bệnh nhân 1 giường và đồng thời yêu cầu các trưởng khoa, phó khoa, bác sĩ giàu kinh nghiệm đi khám chặt chẽ ngày 3 lần để phát hiện kịp thời bệnh nhân trở nặng để có can thiệp kịp thời.

Nhóm giải pháp thứ ba là vấn đề liên kết hệ thống. Tại Hà Nội,  chúng tôi liên kết với các BV chuyên khoa, như BV Việt Đức, K, Huyết học, những nơi có chuyên khoa đầu ngành để khi cần hội chẩn các bệnh nhân nặng, chúng tôi có thể hội chẩn để chuyển bệnh nhân theo trường hợp chuyên khoa để các cháu có thể tận hưởng được các kỹ thuật y tế tốt nhất.

Thêm nữa là liên kết hệ thống ở tuyến dưới: đề án 1816, đề  án BV vệ tinh, đề án của các BV trong chỉ đạo tuyến để giúp các đồng nghiệp tuyến dưới có đủ khả năng, phẩm chất để chăm sóc các bệnh thông thường mà hiện nay chúng tôi đã chuyển giao được.

Một giải pháp cũng rất quan trọng nữa là chúng tôi làm công tác truyền thông, bằng các bài viết, thông tin về dịch bệnh, các bệnh thông thường có thể đưa lên website của BV, thông qua đó, người dân và phụ huynh có thể tiếp cận và hiểu thêm về tình trạng bệnh, tránh hoảng loạn khi có bệnh mới xuất hiện hoặc bệnh dịch xuất hiện.

Chính bằng những giải pháp đó mà chúng tôi nghĩ trong thời gian qua tưởng giải quyết một vấn đề rất đơn giản nhưng rất khó khăn đòi hỏi nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên của BV, và sự giúp đỡ của xã hội, đặc biệt của Bộ Y tế, có thể nói hiện tại về cơ bản chúng tôi đã giải quyết được tình trạng nằm ghép tại BV Nhi Trung ương với niềm tin hết sức chắc chắn. Và chúng tôi suy nghĩ trước mắt có thể gải quyết chuyện này bền vững hơn. Tuy nhiên, đây là giải pháp trước mắt. Về lâu dài, cần có biện pháp căn cơ khác.

BTV: Vâng, đó là các giải pháp mới đây mà BV Nhi TƯ  thực hiện. Còn đối với BV Việt Đức, được biết, trước khi ký cam kết, BV đã không còn tình trạng nằm ghép giường. Vậy, ông có thể chia sẻ cách làm như thế nào để có thể thay đổi từ một BV chuyên ngành tuyến cuối luôn trong tình trạng quá tải trở thành một BV không còn tình trạng nằm ghép như hiện nay?

Ông Nguyễn Tiến Quyết: Vâng, với BV Việt Đức chuyện giảm tải,  không nằm ghép chúng tôi đã làm từ lâu rồi. Quý vị cũng biết hơn 10 năm nay (từ những năm 2003-2004) chúng tôi cũng có hiện tượng nằm ghép từ đến 3 bệnh nhân là thường.

Nhưng từ bấy giờ dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Y tế, chúng tôi đã quyết liệt thực hiện chỉ thị 06 của Bộ Y tế. Chúng tôi đã tăng thêm giường và tăng giờ làm việc. Cùng với đó, áp dụng công nghệ cao và phân loại bệnh nhân chặt chẽ.

Chúng tôi đã tào tạo cho các bệnh viện vệ tinh, 6 bệnh viện vệ tinh đã thực hiện rất hiệu quả. Chỉ nói đơn giản như BV Phú Thọ tỷ lệ chuyển tuyến từ 100%, sau khi thực hiện đề án bệnh viện vệ tinh đã chỉ còn khoảng 10-15%.

Bằng chứng kiểm nghiệm nữa là chúng tôi chống quá tải từ xa bằng cách thực hiện tốt đề án 1816 và tăng cường trao đổi kinh nghiệm với tuyến dưới. Như vậy người dân có thể tiếp cận nhanh nhất với dịch vụ y tế, như vậy cũng giảm tải rất lớn cho BV Việt Đức.

Từ năm 2003 - 2004 chúng tôi chỉ có 430 giường đến 2007-2008 đã có 800 giường, và đến bây giờ chúng tôi đã có 1.100 giường. Cuối tháng này chúng tôi khánh thành tòa nhà công nghệ vào có 350 giường nữa thì BV Việt Đức có gần 1.500 giường bệnh.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên.

BTV: Với những gì mà BV Nhi và BV Việt Đức đã làm thời gian qua nhằm không để bệnh nhân nằm ghép, vậy Bộ Y tế có đánh giá gì về cách làm này?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Bộ Y tế đánh giá rất cao về sự quyết tâm của các BV thời gian qua trong việc thực hiện đề án giảm tải đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Như BV Việt Đức và BV Nhi TƯ, thì đây là sự quyết liệt của các đồng chí lãnh đạo BV. Và đặc biệt là sự hỗ trợ, chỉ đạo, quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các BV được đầu tư, nâng cấp, mở rộng, tăng thêm giường bệnh.

Bộ Y tế  đã chỉ đạo và đồng ý để các bệnh viện này là BV hạt nhân, giúp các BV tuyến tỉnh và các bệnh viện vệ tinh.Trong nhiều năm qua, 2 BV này và các tuyến Trung ương, tuyến cuối đã giúp các BV tuyến dưới về chuyển giao kỹ thuật. Do vậy, nhiều kỹ thuật cao, kỹ thuật mới được áp dụng vào các BV tuyến dưới. Từ đó, giảm được nhiều bệnh nhân phải chuyển lên tuyến trên điều trị và cũng giảm vấn đề kinh tế cho bệnh nhân.

Không những thực hiện đề án BV vệ tinh, các BV còn thực hiện Đề án 1816 chuyển giao kỹ thuật cho các BV tuyến dưới để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho các BV này. Các BV hiện nay cam kết không để bệnh nhân nằm ghép trên giường bệnh, đó là giải quyết những bức xúc, lo ngại của bệnh nhân. Bây giờ đã có 16 BV cam kết không để bệnh nhân nằm ghép.

BTV: Thưa Thứ trưởng, chính sách nào thì cũng xuất phát từ lợi ích của người dân. Rõ ràng để thực thiện cam kết này cần sự nỗ lực rất lớn của các BV. Bên cạnh đó, Bộ Y tế có hỗ trợ gì để các BV thực hiện tốt cam kết này?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Bộ Y tế cũng có những hỗ trợ cụ thể cho các BV nhưng trước hết đây là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ…. đối với công tác giảm tải BV. Cụ thể, chúng tôi đã thực hiện Đề án 47 về đầu tư xây dựng, nâng cấp BV tuyến huyện. Sau đó Nghị quyết số 18 của Quốc hội, Quyết định 930 của Chính phủ về đầu tư mở rộng, nâng cấp một số BV chuyên khoa tuyến Trung ương như Nhi, U bướu, Chấn thương chỉnh hình, Lao…. Đặc biệt một số BV tỉnh được nâng cấp. Đây cũng là giải pháp tốt mà Bộ Y tế được các cấp quan tâm.

Bộ Y tế đã thực hiện đề án giảm tải BV theo Quyết định 92 của Chính phủ, Bộ Y tế cũng đã ban hành đề án BV vệ tinh với 14 BV hạt nhân là các BV Trung ương và tuyến cuối của HN, TPHCM chuyển giao kỹ thuật, đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ y tế cho 46 BV tỉnh, BV vệ tinh. Và các địa phương cũng quan tâm đầu tư cho các BV tỉnh.

Đề án bác sỹ gia đình được triển khai khá tốt tại 8 tỉnh và chúng tôi sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này. Đến nay nhiều BV đã cam kết không nằm ghép.

BTV: Với các BV, tôi nghĩ rằng không chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà cần phải có những nguồn lực khác. Xin hỏi BV đã huy động được những nguồn lực nào để đóng góp vào việc giảm tải?

Ông Nguyễn Tiến Quyết: Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Y tế những biện pháp quyết liệt đó nhưng theo tôi, biện pháp phải đi kèm với những điều kiện, điều kiện cần và đủ cho 1 phương trình, dự án phải được thực hiện tốt, căn cơ và Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện xã hội hóa cho các BV và tôi xin nhắc lại, cơ chế xã hội hóa phải được làm một cách minh bạch, dân chủ công khai. 

Ngoài xã hội hóa về mặt trang thiết bị để triển khai các kỹ thuật cao trong điều trị bệnh nhân, thì chúng tôi còn tiếp tục vay vốn Ngân hàng Phát triển và KFV của Đức để mua trang thiết bị, xây nhà.

Chúng tôi hiện có 1 khu nhà kỹ thuật cao 13 tầng, với thêm 20 phòng mổ, nâng tổng số phòng mổ lên 52 phòng; thêm 350 giường, đủ sức cáng đáng điều trị cho bệnh nhân một cách an tâm, không phải nằm ghép. Và bệnh nhân yên tâm không phải chuyển khi mà bệnh chưa đáp ứng được. Đó là cơ chế chính sách xã hội hóa nhưng tôi nhắc lại là xã hội hóa rất minh bạch, dân chủ và làm rất tốt.

Ông Lê Thanh Hải: Với BV Nhi Trung ương lại có đặc điểm khác. Đến khám bệnh, điều trị tại BV chủ yếu là trẻ em dưới 6 tuổi và trẻ em nghèo. Đại đa số các cháu  khi đến BV Nhi Trung ương, là BV tuyến cuối, đều là bệnh nặng. Bệnh nặng, nhà nghèo nên việc xã hội hóa rất khó.

Phần lớn  chúng tôi phải tận dụng mọi nguồn lực từ Chính phủ, Bộ Y tế và các tài trợ.  Sau dịch sởi hồi đầu năm 2014, chúng tôi phải vận đồng từ ngân hàng và các tài trợ giúp đỡ. Từ các nguồn lực này,  chúng tôi đã có được 300 giường bệnh với nhiều trang thiết bị và máy móc đắt tiền. Hiện nay chúng tôi có 400 giường bệnh phục vụ hồi sức cấp cứu và 150 máy thờ hoạt động để phục vụ chữa bệnh.

Bệnh viện Nhi Trung ương được Đảng và Nhà nước quan tâm nên đã xây bổ sung tòa nhà 16 tầng chuẩn bị đưa vào hoạt động (khoảng tháng 5-tháng 6/2015). Với hạ tầng cơ sở này thì trước mắt trong 3,4 năm tới chúng tôi cơ bản đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh.

BTV: Thưa ông Nguyễn Văn Tiên, có thể hiểu những thông tin mà các BV vừa đưa ra trong tọa đàm là những căn cứ để các BV ký cam kết không để bệnh nhân nằm ghép. Theo ông điều này có khả thi không và người dân có thể đặt niềm tin vào cam kết của các BV không?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Thực ra, cách đây 10 năm, một đồng chí lãnh đạo của Bộ Y tế đã hứa trước Quốc hội là sau 3-4 năm sẽ giảm tải, nhưng thực tế thì không được như vậy. Cho đến bây giờ, tình trạng quá tải vẫn còn, nhưng đã giảm, và thực tế chúng ta đã thấy, 16 BV cam kết giảm tải và chúng tôi nghĩ rằng, các cơ quan báo chí và người dân sẽ theo dõi những cam kết này.

Như Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên vừa nói, thực ra trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Quốc hội đã nhận thấy vấn đề quá tải BV, chất lượng BV các tuyến dưới rất kém. Cho nên, chúng ta đã đầu tư mấy chục nghìn tỷ đồng xây dựng hệ thống hơn 700 BV huyện và hơn 100 BV cấp tỉnh. Cho đến bây giờ, nhờ các thành quả chúng ta xây dựng, củng cố tuyến dưới, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa ở các tuyến tỉnh thì tuyến Trung ương mới giảm.

Chúng tôi đi giám sát ở rất nhiều tỉnh thì khá nhiều BV tỉnh đã làm được những kỹ thuật của Trung ương, cho nên bệnh nhân không về Trung ương nữa. Đấy là một điều mà thành công chúng ta đã chuyển giao kỹ thuật cho tuyến tỉnh, chứ nếu cấp Trung ương cứ khư khư giữ những kỹ thuật ấy để thực hiện thì chúng ta không có chuyện giảm tải được. Thực ra thì các BV Trung ương và đặc biệt là Bộ Y tế rất cố gắng thúc đẩy các BV, các bác sĩ ở các BV Trung ương… phải đi cơ sở, phải truyền lại các kỹ thuật thì chúng ta mới có được những thành quả này. 

Tuy nhiên, đáng lẽ chúng ta có được những thành quả này sớm hơn, nếu như chính sách đồng bộ,các tỉnh ủng hộ. Tôi lấy ví dụ từ chuyến giám sát ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, khi BV thực hiện các kỹ thuật xã hội hóa, mua các thiết bị về, nhưng UBND tỉnh không cho thu giá dịch vụ, bắt thu giá bảo hiểm, thì làm sao phát triển được. Hoặc nếu Hà Nội xây BV Nhi thì BV Nhi Trung ương không quá tải. Do vậy,chính sách của chúng ta phải đồng bộ, các địa phương phải vào cuộc, đồng thời các chính sách về giá, về bảo hiểm, nếu chỉ có cam kết từ BV thì không ổn. 

Ông Nguyễn Văn Tiên.

BTV: Một khán giả có gửi câu hỏi về chương trình với nội dung: Tôi thấy quá tải BV hiện nay chủ yếu xảy ra ở những bệnh viện tuyến cuối ở Hà Nội, TP.HCM, đặc biệt ở các chuyên khoa: nhi, ung bướu, tim mạch…, Gia đình tôi có người nhà mắc bệnh ung thư gan, thường xuyên phải nằm điều trị tại BV K. Tôi thấy, những bệnh nhân ung thư đã rất khốn khổ với việc đấu tranh giành sự sống nhưng còn khốn khổ hơn khi phải nằm 2-3 người/giường, sinh hoạt khó khăn, bất tiện. Mong mỏi lớn nhất của gia đình tôi cũng như nhiều người bệnh ung thư lúc này là một bệnh nhân/giường, nhưng điều đó dường như còn xa vời. Vậy tôi xin hỏi Lãnh đạo ngành y tế, thời gian còn lại của bệnh nhân ung thư như người nhà tôi không còn nhiều, liệu người thân của tôi có chờ được đến lúc mỗi bệnh nhân/giường không?

Câu hỏi này có lẽ trùng với câu hỏi của một số người dân gửi đến chương trình, đó là, vì sao trong lần ký cam kết này, chúng tôi chưa thấynhững BV luôn quá tải trầm trọng như BV K, Bạch Mai, Chợ Rẫy TP.HCM, Nhi đồng TP.HCM cam kết.

Câu hỏi này xin chuyển tới lãnh đạo Bộ Y tế trả lời.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên: Mong mỏi của bệnh nhân trong thời gian hiện tại cũng như tương lai rất gần. Hiện nay, về lĩnh vực ung bướu, theo Quyết định 930 của Chính phủ, nhiều địa phương đã xây dựng, thành lập trung tâm, khoa ung bướu. Y tế đã ban hành quy hoạch phát triển mạng lưới ung bướu đến năm 2020.

Thứ hai, các BV tuyến cuối đã thực hiện đề án BV vệ tinh nên nhiều BV tuyến cuối như BV K, BV Ung bướu TPHCM đang đang thực hiện đề án giảm tải, đề án BV vệ tinh và đề án 1816 nên nhiều BV tuyến dưới đã thực hiện được kỹ thuật cao, kỹ thuật mới ngay tại tuyến tỉnh.  Ví dụ tại Khoa Ung bướu  Bắc Giang, Trung tâm Ung bướu BV Phú Thọ trước đây chưa thực hiện đề án thì 70-80% BN phải chuyển lên tuyến trên nhưng hiện nay chỉ 10-15% BN phải chuyển tuyến còn lại chủ yếu điều trị được tại tuyến tỉnh và các trung tâm ung bướu khá khang trang, người bệnh không phải nằm ghép.

Còn BV K đang phấn đấu đến ngày 27/2 sẽ ký cam kết cơ sở 1, cơ sở 2 không nằm ghép còn cơ sở 3 sẽ phấn đấu như vậy vào dịp 19/5

BTV: Bộ có lo ngại vấn đề vì chạy theo thành tích mà các BV ký cam kết không?

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên: Bộ Y tế rất tin tưởng các BV ký cam kết. Trươc đó Y tế đã trực tiếp làm việc  với giám đốc Bv, quán triệt đây là sự tự nguyên của các BV và phải họp ban cán sự Đảng, đoàn thể và tất cả các khoa phòng, xét thấy BV có thể cam kết được không nằm ghép thì mới thực hiện. Chúng tôi  thấy 16 BV thuộc Bộ Y tế cam kết  đều đủ điều kiện thực hiện.

Ví dụ như lãnh đạo BV Việt Đức hôm nay cho biết không chỉ thời điểm này BV mới thực hiện việc giảm tải mà ngay từ mấy năm trước BV Việt Đức đã có chỉ đạo quyết liệt trong vấn đề này. BV Nhi TƯ vừa rồi cũng có đủ điều kiện để cam kết. Do vậy Bộ Y tế tin tưởng các BV căn cứ thực tiễn và những giải pháp đưa ra thì có đủ điều kiện để thực hiện cam kết đã ký.

BTV: Ông Nguyễn Văn Tiên có bình luận thêm gì về ý kiến trên?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Tôi thì ủng hộ cam kết của các BV và của Bộ Y tế. Nhân dịp này chúng tôi đề nghị, khi các BV đã cam kết giảm tải, không nằm quá tải thì Bộ Y tế phải ủng hộ bằng các biện pháp thiết thực, chứ không chỉ nói suông.

Theo tôi, thứ nhất là làm thế nào Bộ Y tế quy định để cấp huyện, xã cấp được các thuốc mà trước kia chỉ có BV Trung ương được cấp. Ví dụ, tránh tình trạng bệnh nhân "rồng rắn" lên Trung ương xếp hàng khám chữa bệnh tiểu đường, cao huyết áp, lĩnh thuốc hàng tháng,  thì bây giờ có lẽ chỉ nên để họ khám 1-2 lần/năm. Lần đầu tiên khám để kiểm tra, sau đó, suốt 10 tháng lĩnh thuốc ở huyện, xã, sau đó cuối năm thì lên kiểm tra lại, như vậy có thể giảm tải rất lớn.

Tôi nghĩ đó là biện pháp rất quan trọng, nhưng thực tế, chúng ta hiện mới làm được bệnh tâm thần… còn các thuốc quý, hiếm thì tuyến huyện, xã không được cấp. Cái này là quy định phải sửa theo quy định của bảo hiểm y tế. Chúng tôi nghĩ cái này phải sửa ngay thì mới giảm tải cho tuyến dưới được, nếu không thì nó chỉ loanh quanh thôi thì sẽ khó.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Góp ý của anh Tiên rất hay, và Bộ Y tế cũng đã thực hiện được trong thời gian qua. Do vậy, đối với 1 số thuốc mà anh Tiên nêu, Bộ cũng đã ban hành Thông tư 31, trong đó mở rộng tuyến sử dụng các thuốc, như tuyến huyện, trạm y tế xã cũng được mở rộng khá nhiều. Tuy nhiên, có một số thuốc không thể mở rộng được tới tuyến huyện, tuyến  xã, như thuốc tim mạch và một số loại thuốc khác nữa, phải có trình độ chuyên môn khá sâu thì mới có thể thực hiện được ở tuyến tỉnh và Tuyến trung ương.

Còn vấn đề một số bệnh mà khám chữa bệnh bảo hiểm mà đỡ vất vả cho bệnh nhân, đối với một số bệnh mãn tính, hiện nay Bộ Y tế đã ban hành thông tư hướng dẫn những bệnh mãn tính nào có quyền được lên cơ sở khám chữa bệnh mà không thông qua chuyển tuyến và được theo dõi hàng tháng. Hiện Bộ Y tế đã ban hành, do vậy, chúng tôi nghĩ đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho bệnh nhân tham gia bảo hiểm y tế điều trị ở các tuyến mà không phải thủ tục phức tạp chuyển tuyến hay các thủ tục khác.

Ông Nguyễn Tiến Quyết: Việc đầu tiên tôi cảm ơn anh Tiên có ý kiến về cơ chế. Khi Bộ Y tế mời tôi lên ký cam kế, tôi nói luôn là BV tôi không nằm ghép nên không phải cam đoan.

Bộ Y tế không ép đơn vị nào trong việc ký kết này. Anh cố gắng đến đâu thì anh báo cáo để anh làm. Đây là làm cho người dân, cho chính mình. Khi bệnh nhân vào nằm 1 mình 1 giường, được đối xử tử tế thì uy tín bệnh viện sẽ lên.

Mà, hiện nay trong cơ chế thị trường thì bắt buộc chúng ta phải phục vụ tật tốt, phải điều trị tốt thì bệnh nhân mới vào BV mình để điều trị và có thể cạnh tranh với nước ngoài. Mà chi phí đi nước ngoài chữa bệnh nhiều khi gấp 4-5 lần trong nước, điển hình là việc ghép gan, nếu ghép gan ở nước ngoài 5 tỷ đồng  thì ở Việt Nam là 1 tỷ đồng.

Chúng tôi có niềm tin vững chắc là BV Việt Đức sẽ không có nằm ghép nữa. Các nhà báo có thể đi thẩm tra nếu có hiện tượng nằm ghép trong BV Việt Đức thì có thể gọi điện ngay cho tôi hoặc chị Xuyên (Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên-pv), anh Tiên (ông Nguyễn Văn Tiên-pv). Chúng tôi  cam đoan có đầy đủ cơ sở vật chất đề không phải nằm ghép.

Hiện nay chúng tôi có 1.100 giường mà việc phủ bệnh nhân chỉ mới 94-95%.  Đương nhiên chúng tôi chuyển bệnh nhân về đâu thì nơi đó phải có trách nhiệm với chúng tôi và trước Bộ Y tế, nếu không chúng tôi sẽ có biện pháp.

Tới đây chúng tôi có thêm 350 giường nữa nên thừa giường. Chính phủ lại cho Bệnh viện Việt Đức xây dựng cơ sở 2 có 1.000 giường ở phía Nam để phục vụ bệnh nhân tại đây. Như vậy chúng tôi sẽ có nguồn lực để nghiên cứu các kỹ thuật cao như kỹ thuật ghép tiên tiến trên thế giới.

Ông Nguyễn Tiến Quyết.

BTV: Chúng tôi vừa nhận được câu hỏi của độc giả  ở Thanh Hóa gửi đến Chương trình như sau, con gái tôi bị suy thận mãn tính, đang điều trị tại BV Nhi TƯ. Do bệnh tình của cháu chỉ phải chạy thận 3 lần/tuần tại BV nên cháu phải ra ở ngoại trú. Vì sức khỏe cháu không đảm bảo, đi đi về về rất khó khăn nên gia đình phải thuê trọ ở gần BV.

Một vấn đề nữa, như trước đây, được điều trị nội trú, khi cháu bị sốt hay có hiện tượng gì bất thường thì có thể gọi ngay bác sĩ, nhưng nay phải ra ở ngoại trú, có vấn đề gì thì lại phải mất thời gian cho cháu nhập viện. Vậy, xin cho tôi hỏi, quyền lợi của những bệnh nhân như con gái tôi có phải bị co hẹp do việc ký cam kết của BV không?

Ông Lê Thanh Hải: Đây là 1 thực tiễn của cuộc sống, các bệnh mãn tính hoặc các bệnh phải phục hồi chức năng gần như suốt đời. Nhưng khi tình trạng bệnh nhân đã ổn định thì có thể hướng dẫn chăm sóc tại nhà, tại cộng đồng, tại tuyến dưới. Tuy nhiên, trường hợp con của chị mắc bệnh suy thận mãn tính, không còn biện pháp nào ngoài cần chạy thận nhân tạo. 

Tôi biết khu vực phía Bắc để chạy thận nhân tạo cho trẻ em thì có BV Nghệ An đang làm được. 1 tuần bệnh nhân phải vào viện 3 lần, 1 lần mất 3,4 tiếng, sau đó cháu có thể ra ngoại trú hoặc về địa phương. Triển khai chạy thận nhân tạo cho nhi khoa khó hơn rất nhiều so với người lớn. Chúng tôi trong tương lai chuyển giao kỹ thuật này cho BV vệ tinh, BV tuyến dưới. Nhưng trong thực tiễn có cái khó. Giữ bảo hiểm y tế và kỹ thuật này chưa giải quyết được nên còn khó. Trong tương lai chắc chắn chúng tôi sẽ chuyển giao kỹ thuật. Tuy nhiên, đề nghị UBND và hệ thống bảo hiểm y tế phải vào cuộc quyết liệt để các cháu được hưởng chăm sóc tại địa phương, không phải chuyển lên tuyến trên. Tôi khẳng định những trường hợp bệnh mãn tính vẫn chăm sóc thường xuyên, không có gì thay đổi.

BTV: Có ý kiến cho rằng cũng vì không để bệnh nhân nằm ghép mà một số BV đã kê cả giường ra ngoài hành lang để bệnh nhân nằm. Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên có suy nghĩ như thế nào về vấn đề này?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Một số BV khi bệnh nhân vào viện thì chưa đủ giường có thể trong thời gian sau 24 tiếng các BV mới thu xếp đủ giường bệnh cho bệnh nhân. Cho nên cũng có trường hợp kê thêm giường ở ngoài hàng lang, nhưng thực tế tại nhiều BV hành lang cũng rất khang trang, rộng rãi có thể kê giường cho bệnh nhân nằm tạm và sau 24 tiếng thì BV sắp xếp để chuyển vào buồng bệnh.

Có ý kiến cho rằng cũng vì không để bệnh nhân nằm ghép mà một số BV đã kê cả giường ra ngoài hành lang để bệnh nhân nằm. Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên có suy nghĩ như thế nào về vấn đề này?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Một số BV khi bệnh nhân vào viện thì chưa đủ giường có thể trong thời gian sau 24 tiếng các BV mới thu xếp đủ giường bệnh cho bệnh nhân. Cho nên cũng có trường hợp kê thêm giường ở ngoài hàng lang, nhưng thực tế tại nhiều BV hành lang cũng rất khang trang, rộng rãi có thể kế cho BN nằm tạm và sau 24 tiếng thì sắp xếp để chuyển bệnh nhân vào buồng bệnh.

BTV: Một vấn đề nữa mà dư luận cũng đang rất băn khoăn, để chống nằm ghép, sẽ có những bệnh nhân sau khi điều trị (như phẫu thuật…) phải chuyển về các cơ sở tuyến dưới để được chăm sóc, trong khi một số cơ sở tuyến dưới chưa tạo được niềm tin cho người bệnh, họ lo ngại bị biến chứng hoặc nhiễm trùng... Vậy, BV có biện pháp hay cơ chế giám sát như nào để đảm bảo chất lượng điều trị cho những bệnh nhân này? Câu hỏi này, chúng tôi xin chuyển tới Giám đốc BV Việt Đức.

Ông NguyễnTiến Quyết: Băn khoăn này không chỉ của nhân dân mà các nhà quản lý. Nhưng với chúng tôi thành quả cao nhất là chữa bệnh và đảm bảo khỏi bệnh nên chúng tôi chuyển người bệnh về đâu là đảm bảo nơi đó đã được Bộ Y tế cho phép điều trị và đã được chúng tôi thẩm định kết quả điều trị.

Bằng chứng năm vừa qua có 3 vụ nổi cộm của ngành ngoại khoa: vụ nổ nhà máy sản xuất pháo hoa ở Phú Thọ; sập cầu ở Lai Châu ; ô tô lao xuống vực ở Lào Cai. Nhưng khi cán bộ, bác sỹ BV Việt Đức được điều đến các nơi đó thì gần như các nạn nhân đã được điều trị tương đối tốt. Chúng tôi chỉ xử lý những ca khó. Đấy là thành quả của ngành ngoại khoa nói riêng và thành quả của Bộ Y tế khi chúng ta thực hiện chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Cho nên chúng tôi đảm bảo bệnh nhân chúng tôi chuyển về đâu là nơi đó đủ khả năng điều trị. Còn những bệnh nhân tiên lượng có vấn đề chúng tôi không bao giờ chuyển về. Bên cạnh đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa các tuyến để điều trị cùng như quy định chặt chẽ hiện nay để đảm bảo chuyển tuyến điều trị có hiệu qủa. Ví dụ, một bệnh nhân bị viêm tụy cấp, sau khi điều trị ổn định chúng tôi chuyển về BV Saint Paul của Hà Nội, nếu có vấn đề gì thì sẽ báo lại chúng tôi. Hơn nữa, hiện số giường bệnh của BV Việt Đức rất nhiều nên người dân hay những nhà quản lý cũng không nên ngại chuyện cho bệnh nhân về mà có những biến chứng đáng tiếc xảy ra.

Còn có thực tế là một số người được chuyển về nhưng không muốn về mà muốn nằm điều trị tối đa ở BV Việt Đức sau đó về nhà là đi làm được luôn. Điều này không thể thực hiện được ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Chính vì thế mới có tuyến tỉnh, huyện để chăm sóc bệnh nhân sau khi điều trị.

BTV: Chúng ta rất không mong muốn có trường hợp bệnh nhân bị tai biến sau khi được chuyển xuống các BV tuyến dưới. Tuy nhiên, chúng ta cần đưa ra tình huống để không bị động trong những trường hợp đó. Xin hỏi lãnh đạo Bộ Y tế, giả sử có trường hợp người bệnh bị tai biến hoặc nhiễm trùng bệnh…tại BV tuyến dưới sau khi được phẫu thuật ở tuyến trên, trong tình huống này, người dân sẽ tìm đến cơ quan cấp nào để giải quyết?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Bộ Y tế đã phân tuyến kỹ thuật, phân công sự chỉ đạo của các BV tuyến cuối đối với từng khu vực, từng BV. Do vậy, như ông Nguyễn Tiến Quyết đã nêu, trách nhiệm của các bác sĩ luôn luôn phải quan tâm tới chất lượng và khi chuyển viện cho bệnh nhân hoặc xuống BV tuyến dưới. 

Do vậy, cơ bản là khi chuyển đi các bác sĩ tuyến trên đều cân nhắc rất kỹ khi chuyển đi đâu và chuyển về các BV vệ tinh như thế, các đồng chí cũng có hội chẩn trực tiếp. Hiện Bộ Y tế có hệ thống Telemedicine, hội chẩn trực tiếp như vậy, gần như từ trước tới giờ không có tình trạng chuyển bệnh nhân mà bệnh nhân lại có các tai biến như anh đã nêu. Và ông Nguyễn Tiến Quyết đã nêu rất kỹ về vấn đề chuyển tuyến trở lại các BV tuyến dưới như thế nào, bệnh nhân yên tâm trách nhiệm của các bác sĩ tuyến trên.

BTV: Xin hỏi ông Nguyễn Văn Tiên ánh giá như nào về chế tài mà Bộ Y tế đưa ra? Theo ông có cần phải bổ sung khía cạnh nào không?

Ông Nguyễn Văn Tiên:Trước hết tôi nhất trí với với ý kiến của chị Xuyên (Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên), anh Quyết (ông Nguyễn Tiến Quyết). Trên thế giới, người ta chỉ quy định, BV tuyến trên chữa bệnh nặng, xong thì trả về tuyến dưới, bác sỹ gia đình điều trị. Và cơ chế BHYT đã quy định như vậy. Nếu như giữ ở tuyến TƯ thì một ngày tiêu hết 1 triệu đồng, thì về tuyến dưới mỗi ngày chỉ hết 100.000 đồng, ảnh hưởng đến tiền bảo hiểm, gây lãng phí.

Điều này thế giới làm được, tôi nghĩ Việt nam cũng làm được. Cái tôi lo là trường hợp tuyến trên giữ bệnh nhân lại để điều trị lấy tiền vì cơ chế tài chính của chúng ta còn nhiều vấn đề phải nghĩ. Nhà nước giao cho cán bộ y tế thu tiền để trả lương, thưởng và nhiều loại chi phí khác, cho nên nhiều Bv Trung ương cũng muốn có nhiều bệnh nhân, nhiều dịch vụ để trả lương, thưởng. Chính sách vĩ mô, Chính phủ, ngành tài chính phải xem xét thế nào để chúng ta có hệ thống lương ổn định cho cán bộ y tế. Nếu như không thay đổi điều này thì cải cách y tế rất vất vả và khó đạt được công bằng, định hướng bảo đảm y tế toàn dân trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhân dân

Ông Lê Thanh Hải.

BTV: Thưa quý vị, vấn đề giảm tải BV, trong đó có mục tiêu không còn bệnh nhân nằm ghép giường được Bộ Y tế coi là nhiệm vụ hàng đầu trong bảy nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Với mục tiêu lấy người bệnh làm trung tâm, vì sự hài lòng của người bệnh, ngành y tế đang dốc hết sức mình. Người dân mong muốn gì ở ngành y tế sau sự kiện các BV ký cam kết không để nằm ghép.

Những hy vọng và mong muốn của người dân là hết sức chính đáng. Được biết, năm nay, dự kiến sẽ có thêm 22 BV khác tiếp tục ký cam kết này. Như vậy, chỉ trong 1 năm có tới gần 40 BV cam kết không để bệnh nhân nằm ghép. Trong khi cơ sở vật chất của các BV vẫn còn khó khăn, nhu cầu khám chữa bệnh của người dân thì ngày càng cao. Theo ông Nguyễn Văn Tiên, việc này có khả thi không trong khi quá tải BV luôn là vấn đề nóng của ngành Y trong nhiều năm nay? Đây có thể coi là quyết tâm của các BV trong vấn đề giảm tải không?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Chúng tôi nghĩ điều này rất khả thi và đây cũng là một trong những “quả ngọt” mà chúng ta đầu tư  rất mạnh cho hệ thống y tế từ nguồn trái phiếu Chính phủ, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của người dân, thực hiện Nghị quyết của Đảng về nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được thuận lợi hơn.

Sau hơn 10 năm chúng ta thực hiện các dự án đầu tư, chương chuyển giao kỹ thuật cho BV tuyến dưới thì đã có được những kết quả rất tích cực. Và với Luật BHYT mới, cơ chế mới, Nhà nước sẽ ban hành khung giá thống nhất về dịch vụ y tế ở trên toàn quốc cùng với việc chuẩn bị đưa ra nghị định về đổi mới tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các cơ sở y tế sẽ thúc đẩy các BV vay vốn, xã hội hóa để mở rộng cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ y bác sỹ, giảm tải thành công.

BTV: Thưa ông Nguyễn Văn Tiên, trong vấn đề giảm tải BV, trách nhiệm của chính quyền tỉnh, thành phố có vấn đề gì không khi đa số quá tải BV là do người dân ở các địa phương chuyển lên?

 Ông Nguyễn Văn Tiên: Tôi nghĩ là có 2 vấn đề, thứ nhất, những BV nào thiếu dịch vụ cơ bản, như Hà Nội không có viện nhi thì Hà Nội phải xây, không thể dồn hết bệnh nhân lên BV Nhi Trung ương- nhà nước đầu tư để phục vụ chữa bệnh khó khăn cho đồng bào các cháu ở các tỉnh, chứ phục vụ hết cho dân Hà Nội chữa cảm cúm, viêm phổi, viêm họng! Tôi được biết, hiện Hà Nội đã có dự án quy hoạch xây BV nhi, nhưng chưa động thổ, chưa làm.

Thứ hai, một vấn đề lớn nữa là trách nhiệm của UBND tỉnh phải nhận thức được vấn đề này. Tôi lấy ví dụ, chúng tôi đi giám sát ở khá nhiều BV thì khi các BV thực hiện xã hội hóa, thực hiện các kỹ thuật hiện đại Trung ương chuyển giao trong lúc nguồn lực địa phương chưa đủ, thì UBND tỉnh phải tạo điều kiện để cho BV thu đúng giá dịch vụ như quy định nghị định của Chính phủ. Chứ nếu dịch vụ xã hội hóa đầu tư trang thiết bị, nguồn nhân lực, mời các bác sĩ tuyến trên về mà cho thu giá BHYT thì lấy tiền đâu phát triển, ai dám làm, tỉnh phải có trách nhiệm trong cái đó, chứ nếu không thì tôi nghĩ là khó khăn.

Đặc biệt các tỉnh, lãnh đạo UBND và HĐND phải ủng hộ các hoạt động xã hội hóa y tế ở tỉnh thì mới sử dụng được các kỹ thuật hiện đại, khi đó mới giảm tải được cho Trung ương và cái chính là người dân ở tỉnh đó được hưởng, họ không phải “khăn gói quả mướp” về chầu chực ở các BV Trung ương, tuyến cuối. Đó là trách nhiệm của UBND tỉnh.

BTV: Trên thế giới họ tổ chức khám chữa bệnh ở các BV tuyến trên như thế nào? Có giống với nước ta không?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Chúng tôi có đi tham quan một số nơi về việc tổ chức mạng lưới khám chữa bệnh ở các quốc gia, cũng có thấy nhiều điều cần học hỏi.  Ví dụ ở  Đức thì đa số là các đơn vị y tế tư nhân, các đơn vị có chất lượng cao chỉ có một số còn đa số các BV đều phục vụ được nhu cầu y tế tại địa phương mình.

Ở Việt Nam, mô hình phân tuyến hiện nay hết sức phù hợp và đang phát huy rất tốt.

BTV: Với vai trò lãnh đạo Bộ Y tế, bà kỳ vọng như thế nào về việc thực hiện cam kết của các BV?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Trong những năm qua Đảng và Chính phủ… hết sức quan tâm xây dựng khám bệnh chữa bệnh nhất là tuyến huyện. Đã có hơn 700 bệnh viện tuyến huyện được đầu tư mở rộng và có hơn 200 bệnh viện được đầu tư, có cả những bệnh viện được xây mới, giường bệnh tương đối khá.

Bộ Y tế cũng có nhiều chỉ đạo như thực hiện đề án BV vệ tinh hoặc đề án 1816, đề án bác sỹ gia đình… Khi chỉ đạo như vậy Bộ trưởng Bộ Y tế rất quyết liệt và tập trung. Từng BV cũng quán triệt tinh thần này. Tôi nghĩ trong năm nay cơ bản các Bv không có tình trạng nằm ghép, sẽ theo được đúng đề án mục tiêu Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Từ nay đến năm 2020 chúng ta cơ bản sẽ giải quyết quá tải BV, Bộ Y tế sẽ phối hợp tốt với các ngành và các địa phương thực hiện tốt.

BTV: Rõ ràng, ký cam kết không để bệnh nhân nằm ghép chỉ là một trong nhiều giải pháp mà toàn ngành Y tế đang nỗ lực thực hiện giảm quá tải BV. Và câu hỏi cuối cùng, chúng tôi xin gửi tới Lãnh đạo Bộ Y tế, câu hỏi của độc giả có địa chỉ email: ngocthang…@yahoo.com. Câu hỏi này cũng là băn khoăn của rất nhiều người dân. Tôi xin đọc nguyên văn câu hỏi như sau: Tôi rất ủng hộ và hoan nghênh việc ký cam kết không để bệnh nhân nằm ghép giường của các BV, nếu việc này được thực hiện đúng như những gì các vị cam kết thì người dân như chúng tôi không còn phải lo lắng và khổ sở mỗi lần vào viện chữa bệnh. Tuy nhiên, tôi được biết, quá tải ở các BV tuyến TƯ chủ yếu là do người dân chưa tin tưởng tuyến dưới và dồn lên tuyến trên khám chữa bệnh. Vậy, xin được hỏi lãnh đạo Bộ Y tế, tới đây, Bộ sẽ có những giải pháp nào để nâng cao chất lượng tuyến y tế cơ sở, từ đó sẽ hạn chế tối đa người dân không dồn lên y tế tuyến trên?

Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên: Các giải pháp để bệnh nhân không chuyển lên tuyến trên có rất nhiều: BV vệ tinh, đề án 1816, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới… mục tiêu chính để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cũng như tạo sự yên tâm, tin tưởng cho người dân về chất lượng điều trị ở tuyến dưới từng bước được nâng cao. Trước kia, nhiều BV triển khai kỹ thuật chỉ đạt 50-60% theo danh mục phân tuyến kỹ thuật và nhiều trường hợp đều phải chuyển lên tuyến trên nhưng hiện nay con số này đã tăng lên 80-90%.  Qua đó, ngành Y tế đã đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tạo sự hài lòng cho người bệnh.

BTV: Rất mong những giải pháp trên của Bộ Y tế sẽ sớm giải quyết được tình trạng quá tải BV hiện nay vì mấu chốt của vấn đề quá tải chính là nâng cao chất lượng tuyến y tế cơ sở.

Đồng thời, để những bản cam kết này thực sự đi vào cuộc sống, vì lợi ích của người bệnh thì rất cần sự quyết tâm của những người đứng đầu các BV, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì người bệnh. Song song với đó cần ketes hợp với hàng loạt các giải pháp đồng bộ khác thì vấn đề giảm tải BV sẽ không còn là thách thức của ngành Y tế, của toàn xã hội, mà người dân sẽ thực sự là trung tâm, sẽ được hưởng nhiều quyền lợi khi đi khám chữa bệnh.


Thăm dò ý kiến