Bài số 1: Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Việt Nam có tiềm năng trở thành điểm đến hấp dẫn của du lịch y tế khu vực
30/09/2025 | 16:08 PM



Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, du lịch y tế được xem là lĩnh vực giàu tiềm năng phát triển của Việt Nam. Với lợi thế về chi phí cạnh tranh, đội ngũ bác sĩ trình độ cao, hạ tầng y tế hiện đại và sự kết hợp độc đáo giữa chăm sóc sức khỏe với du lịch nghỉ dưỡng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành điểm đến tin cậy của bệnh nhân và du khách quốc tế. Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên đã có những chia sẻ cụ thể về định hướng, chính sách cũng như các rào cản cần tháo gỡ để ngành du lịch y tế bứt phá mạnh mẽ trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên
Phóng viên: Thưa Thứ trưởng Bộ Y tế, hiện nay Bộ Y tế nhìn nhận tiềm năng phát triển du lịch y tế của Việt Nam như thế nào trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng?
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Bộ Y tế nhận định du lịch y tế là một trong những lĩnh vực giàu tiềm năng phát triển của Việt Nam. Đây không chỉ là cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế trong nước mà còn tạo thêm động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trên thế giới, du lịch y tế – hay còn gọi là du lịch sức khỏe – đã trở thành một xu hướng tất yếu trong những thập kỷ gần đây. Sự tăng trưởng toàn cầu về kinh tế, nhu cầu ngày càng lớn của bệnh nhân, chuyên gia y tế, sự phát triển của công nghệ cùng với dòng vốn đầu tư và các chế độ bảo hiểm vượt biên giới đã làm thay đổi mạnh mẽ mô hình tiêu thụ và sản xuất dịch vụ y tế. Sự dịch chuyển hàng hóa và dịch vụ dưới sự bảo trợ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ đã đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ y tế, kéo theo sự phát triển nhanh chóng của loại hình du lịch y tế. Thực tế cho thấy chăm sóc sức khỏe vốn là một ngành dịch vụ, và ngày nay đã trở thành lĩnh vực có thể trao đổi, mua bán toàn cầu. Một yếu tố mới quan trọng trong thương mại dịch vụ y tế chính là hiện tượng bệnh nhân di chuyển sang quốc gia khác để được điều trị. Điều này đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của loại hình du lịch sức khỏe.
Du lịch sức khỏe được hiểu là khi người dân lựa chọn đi ra nước ngoài để sử dụng các dịch vụ khám, chữa bệnh, làm đẹp hoặc các sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Hình thức này có thể là một chuyến đi ngắn hạn để khám và điều trị, hoặc cũng có thể là một hành trình dài nhằm tận hưởng và sử dụng toàn diện các dịch vụ y tế. Nếu như trước đây, du lịch y tế chủ yếu diễn ra theo chiều ngược – từ các nước kém phát triển sang các nước phát triển – thì từ thế kỷ 21, xu hướng đã thay đổi. Ngày càng nhiều du khách và bệnh nhân từ các quốc gia giàu có, phát triển hơn di chuyển đến các nước có thu nhập thấp hoặc trung bình để tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi phí hợp lý, nhờ sự hỗ trợ của các chuyến bay giá rẻ và thông tin rộng rãi trên internet. Chính sự thay đổi này đã đưa thị trường du lịch y tế từ các quốc gia OECD sang những nước như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và cả Việt Nam.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) dự báo du lịch y tế sẽ trở thành một trong sáu xu hướng phát triển mạnh trong tương lai, cùng với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch sáng tạo, du lịch thông minh và du lịch có trách nhiệm. Viện Sức khỏe Toàn cầu cũng khẳng định đây là một trong những phân khúc tăng trưởng nhanh nhất của ngành du lịch toàn cầu, với quy mô thị trường từ 639 tỷ USD năm 2017 dự kiến tăng lên 919 tỷ USD vào năm 2022 và tiếp tục bứt phá mạnh trong những năm tới.
Tại Việt Nam, mặc dù du lịch y tế vẫn còn là lĩnh vực khá mới so với nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay các nước ASEAN như Thái Lan, Singapore, nhưng những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Việt Nam hiện thu về khoảng 1 tỷ USD mỗi năm từ khách quốc tế đến khám, chữa bệnh. Riêng tại TP.HCM, 30 – 40% khách ngoài thành phố và ngoài nước đến khám, chữa bệnh, trong đó chủ yếu là người Campuchia, Lào, cùng với sự gia tăng khách từ Mỹ, Úc, Canada, Nhật Bản và cộng đồng kiều bào. Những con số này cho thấy tiềm năng khai thác du lịch y tế ở nước ta là rất lớn.
Việt Nam có nhiều thế mạnh rõ rệt để phát triển loại hình này.
1. Về trình độ chuyên môn, nhiều bệnh viện tuyến trung ương đã làm chủ các kỹ thuật y khoa phức tạp như ghép tạng, can thiệp tim mạch, điều trị ung thư, phẫu thuật nội soi tiên tiến, thụ tinh trong ống nghiệm với tỷ lệ thành công cao ngang tầm khu vực.
2. Về chi phí, dịch vụ y tế tại Việt Nam chỉ bằng khoảng 30–50% so với các quốc gia như Singapore hay Thái Lan, trong khi chất lượng đã tiệm cận chuẩn quốc tế, tạo lợi thế cạnh tranh thu hút bệnh nhân từ các nước phát triển và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
3. Việt Nam có thế mạnh trong các dịch vụ phục hồi chức năng, y học cổ truyền, vật lý trị liệu kết hợp với nguồn dược liệu phong phú. Đây là xu hướng chăm sóc sức khỏe toàn diện, có bản sắc riêng mà nhiều nước trong khu vực không có được.
4. Về hạ tầng, nhiều bệnh viện đã được đầu tư đồng bộ, hiện đại, có trung tâm kỹ thuật cao, có khả năng tiếp nhận bệnh nhân quốc tế.
5. Về nhân lực, đội ngũ y bác sĩ Việt Nam giàu kinh nghiệm, nhiều người được đào tạo tại các quốc gia phát triển, có khả năng ngoại ngữ, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ bệnh nhân quốc tế.
6. Song song với đó, thế mạnh du lịch nghỉ dưỡng của Việt Nam là điểm cộng quan trọng. Với bờ biển dài, khí hậu đa dạng, cảnh quan đẹp, văn hóa và ẩm thực phong phú, Việt Nam có thể xây dựng các gói “du lịch nghỉ dưỡng kết hợp chăm sóc sức khỏe” mà ít quốc gia có được sự đa dạng tương tự. Thực tế cho thấy nhiều khu nghỉ dưỡng cao cấp, khách sạn 5 sao tại Việt Nam đã dành không gian phát triển hệ thống tiện ích chăm sóc sức khỏe đồng bộ. Một số công ty lữ hành cũng đã bước đầu xây dựng sản phẩm du lịch sức khỏe chuyên biệt như tour thiền – yoga, tour giảm cân, thải độc với sự đồng hành của chuyên gia, huấn luyện viên. Tuy nhiên, loại hình này ở Việt Nam vẫn chưa phát triển bài bản, phần lớn chỉ do các đơn vị nghỉ dưỡng cung cấp tại chỗ, chưa có hệ thống kiểm định, thẩm định chất lượng rõ ràng.
Bên cạnh đó, du lịch y tế đòi hỏi đội ngũ nhân lực phục vụ chuyên biệt và chuyên nghiệp hơn. Việt Nam cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng phù hợp, đồng thời khắc phục những hạn chế hiện tại như năng lực tiếp thị, quảng bá quốc tế, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ. Nhìn sang các nước trong khu vực có thể thấy, để phát triển du lịch y tế, họ không chỉ đầu tư cơ sở hạ tầng mà còn tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, chuẩn hóa quy trình và đẩy mạnh quảng bá. Đây cũng là những hướng đi mà Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy.
Định hướng trong thời gian tới, Bộ Y tế xác định sẽ tập trung chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế theo tiêu chuẩn quốc tế, phát triển các sản phẩm du lịch y tế đặc thù gắn với lợi thế từng địa phương, đồng thời đẩy mạnh truyền thông, quảng bá hình ảnh Việt Nam là điểm đến an toàn, tin cậy và hiệu quả về chăm sóc sức khỏe. Bộ Y tế cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các địa phương để xây dựng, triển khai chính sách thu hút, phát triển du lịch y tế. Song song, ngành y tế khuyến khích các bệnh viện, cơ sở y tế tăng cường hợp tác quốc tế, liên kết với công ty lữ hành nhằm hình thành các gói dịch vụ du lịch y tế đặc thù, có sức cạnh tranh và hấp dẫn khách quốc tế cũng như kiều bào.
Có thể khẳng định, với nền tảng y tế và du lịch sẵn có, cùng với định hướng phát triển rõ ràng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành điểm đến hấp dẫn trong khu vực về du lịch y tế trong những năm tới.
Đội ngũ y bác sĩ Việt Nam giàu kinh nghiệm, nhiều người được đào tạo tại các quốc gia phát triển, có khả năng ngoại ngữ, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ bệnh nhân quốc tế.
Phóng viên: Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã triển khai những chính sách hay chương trình gì nhằm hỗ trợ các cơ sở y tế trong nước đón tiếp bệnh nhân quốc tế?
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Ngay sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Quyết định số 1685/QĐ-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh kế mũi nhọn”. Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2951/QĐ-BYT ngày 21/07/2023 phê duyệt Đề án “Phát triển các loại hình dịch vụ, sản phẩm y dược cổ truyền phục vụ khách du lịch đến năm 2030”. Đây là một quyết định định hình khung chung cho lĩnh vực y dược cổ truyền tham gia vào thị trường du lịch sức khỏe. Đến nay theo báo cáo có đã có 15 tỉnh và 01 Bệnh viện châm cứu trung ương ban hành kế hoạch triển khai thực hiện (Quyết định số 1265/QĐ-BYT ngày 15/5/2024 của Bộ Y tế phê duyệt đề án "Phát triển các loại hình dịch vụ, sản phẩm Châm cứu - Y dược cổ truyền phục vụ khách du lịch đến năm 2030 tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương"). Các quyết định này không chỉ tạo điều kiện cho các cơ sở khám, chữa bệnh bằng YDCT mà còn các cơ sở nuôi trồng, các đơn vị sản xuất, kinh doanh có dịp tiếp cận và tham gia vào thị trường cung ứng dịch vụ, sản phẩm có chất lượng phục vụ khách du lịch.
Để tiếp tục có các cơ chế, chính sách hỗ trợ các cơ sở y tế trong nước đón tiếp bệnh nhân quốc tế, Bộ Y tế đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan xây dựng đề án phát triển các dịch vụ, sản phẩm đạt chất lượng cao để cung cấp cho thị trường du lịch, đây là cơ hội để các cơ sở y tế trong nước được tiếp cận với các chính sách mới và thuận lợi (phát triển hạ tầng, nhân lực, đầu tư, hợp tác quốc tế….) để tham gia cung ứng vào thị trường du lịch sức khỏe.
Phóng viên: Ngành y tế Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật hiện đại, thực hiện nhiều kỹ thuật y khoa ngang tầm khu vực và tiệm cận chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, hiện vẫn còn những rào cản thu hút thu hút khách du lịch y tế quốc tế đến Việt Nam. Theo ông, rào cản lớn nhất là, về chất lượng chuyên môn, cơ sở vật chất, thủ tục hành chính, hay niềm tin thương hiệu?
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Những năm gần đây, ngành y tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Các cơ sở y tế, đặc biệt là bệnh viện đầu ngành và một số bệnh viện tư nhân lớn, đã làm chủ nhiều kỹ thuật cao và chuyên sâu như ghép tạng, phẫu thuật bằng rô-bốt, điều trị ung bướu tiên tiến, can thiệp mạch não – mạch vành bằng robot, kỹ thuật xạ trị chính xác cao, thụ tinh trong ống nghiệm và can thiệp bào thai. Cơ sở vật chất ở nhiều bệnh viện đã được đầu tư đồng bộ, có khoa điều trị theo yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; chi phí dịch vụ y tế tại Việt Nam có sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, để phát triển du lịch y tế, cần khắc phục một số tồn tại một số rào cản sau:
1. Chứng nhận và công nhận chất lượng quốc tế: Số lượng bệnh viện đạt chứng nhận quốc tế (JCI hoặc tương đương) còn hạn chế; chưa có hệ thống đánh giá và công bố kết quả chất lượng phục vụ cho quảng bá du lịch y tế đối với cộng đồng quốc tế.
2. Cơ chế tài chính và bảo hiểm: Chưa có cơ chế thanh toán bảo hiểm y tế quốc tế rộng rãi tại các cơ sở y tế Việt Nam, gây khó khăn cho khách quốc tế.
3. Hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ: Một số bệnh viện chưa đồng bộ về hạ tầng, tiện ích và dịch vụ hỗ trợ cho khách quốc tế (phiên dịch, đón tiếp, truyền thông đa ngữ, chăm sóc hậu điều trị).
4. Truyền thông và xây dựng thương hiệu: Thương hiệu du lịch y tế Việt Nam mới ở giai đoạn hình thành, chưa có độ nhận diện rộng rãi; hoạt động tiếp thị quốc tế của nhiều cơ sở y tế còn hạn chế.
Trong các yếu tố này, rào cản chủ yếu hiện nay là niềm tin thương hiệu, gắn với việc số lượng cơ sở đạt chuẩn quốc tế còn ít và công tác quảng bá, xây dựng hình ảnh “du lịch y tế” chưa đủ mạnh để tạo dấu ấn trên thị trường quốc tế. Khi giải quyết được nút thắt này, các yếu tố về hạ tầng, thủ tục và dịch vụ hỗ trợ cũng sẽ được cải thiện tương ứng, tạo sức hút lớn hơn đối với khách du lịch y tế quốc tế.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Tin liên quan
- Bài số 2: Phát triển du lịch y tế: Việt Nam hướng tới trung tâm đạt chuẩn quốc tế giai đoạn 2025–2030
- Bộ Y tế xây dựng Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về quyền người khuyết tật
- Lập Hội đồng thẩm định đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình MTQG chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển
- Bộ trưởng Bộ Y tế thông tin về danh mục thuốc BHYT, dịch vụ kỹ thuật và tỷ lệ thanh toán
- Chính sách đặc thù tạo đột phá để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
- Đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh doanh dược, sản xuất mỹ phẩm thuộc Bộ Y tế