Đảm bảo an toàn lao động trong các ngành có nguy cơ cao

09/08/2013 | 05:00 AM

 | 

Trong lao động sản xuất, người lao động luôn phải tiếp xúc với các yếu tố liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động (AT-VSLĐ) và vệ sinh môi trường. Trên thực tế không có ngành, nghề nào là an toàn tuyệt đối. Xây dựng, khai thác khoáng sản và hóa chất được coi là 3 ngành có nguy cơ cao về TNLĐ và BNN, chiếm trên 60% tổng số vụ TNLĐ nghiêm trọng.

Hà Tất Thắng - Cục trường Cục An toàn lao động

Công đoàn GTVT tổ chức ký giao ước thi đua về an toàn lao động trên công trường
Công đoàn GTVT tổ chức ký giao ước thi đua về an toàn lao động trên công trường

Lĩnh vực có nguy cơ cao về ATLĐ

Những năm gần đây, lĩnh vực khai thác khoáng sản nói chung và khai thác đá nói riêng phát triển mạnh, hầu hết các địa phương đều có các đơn vị khai thác đá để phục vụ cho công tác xây dựng. Việc thực hiện các qui định của Nhà nước về ATVSLĐ trong khai thác khoáng sản còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Điều kiện lao động không đảm bảo an toàn, nhiều nguy cơ dẫn đến tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN): Người lao động làm việc trong các công trường khai thác luôn bị các nguy cơ gây TNLĐ và BNN như: Sạt, lở đất đá; điều kiện thời tiết khắc nghiệt: mưa, bão, nắng nóng, ngập lụt và môi trường lao động bị ô nhiễm bởi khói, bụi, tiếng ồn, rung, lắc…

Thi công cầu vượt Trần Khát Chân- Đại Cồ Việt đảm bảo an toàn
Thi công cầu vượt Trần Khát Chân- Đại Cồ Việt đảm bảo an toàn

Xây dựng là một ngành công nghiệp mũi nhọn, chiếm tỉ trọng lớn trong thu nhập kinh tế quốc dân (khoảng 13,5%) và lực lượng lao động chiếm khoảng 10% trong tổng số lực lượng lao động. Đây cũng là một trong những ngành sản xuất có nhiều yếu tố nguy hiểm, nặng nhọc, độc hại. Việc thực hiện công tác ATVSLĐ trong ngành này cũng rất phức tạp và khó khăn bởi đây là ngành công nghiệp đa ngành nghề từ sản xuất vật liệu xây dựng (khai thác đá, cát sỏi, sắt thép, đồ dùng nội thất...) đến thi công, lắp đặt bảo dưỡng công trình…; Số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỉ lệ rất lớn; Điều kiện và môi trường lao động đa dạng, phức tạp như làm việc trên cao, dưới nước, trên bộ, trong đường hầm... Luôn luôn tiềm ẩn các nguy cơ dẫn đến TNLĐ và BNN. Ngoài ra, vị trí, địa điểm lao động không ổn định gây khó khăn cho công tác quản lý AT-VSLĐ

Hiện tượng vi phạm phổ biến là xây dựng và thi công không đúng thiết, yêu cầu kỹ thuật xây dựng dẫn đến sập đổ công trình; nhiều đơn vị xây dựng không xây dựng kế hoạch BHLĐ, không xây dựng đầy đủ nội qui, qui trình ATVSLĐ và PCCN; không thực hiện đúng các qui định về đăng ký, kiểm định các máy, thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về AT-VSLĐ; không thực hiện việc huấn luyện về AT-VSLĐ cho người lao động; không tổ chức khám sức khoẻ định kỳ và khám phát hiện BNN cho người lao động...

Một tác phẩm tại Hội thi an toàn lao động của Sở GTVT Hà Nội
Một tác phẩm tại Hội thi an toàn lao động của Sở GTVT Hà Nội

Từ đầu năm đến nay, Bộ LĐTB&XH đã thanh tra và kiểm tra về AT-VSLĐ gần 14.500 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên cả nước, đã phát hiện gần 1.300 doanh nghiệp vi phạm. Tính đến tháng 5/2013, cả nước đã xảy ra 161 vụ tai nạn lao động khiến 176 người chết. Trong đó, có nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng như vụ sập giàn giáo tại công trình Cầu Sông Tranh (Ninh Giang, Hải Dương) đã làm 3 người chết; sập giàn giáo ở nhà thờ Ngọc Lâm (Thái Nguyên) làm 3 người chết và 61 người bị thương; sạt lở mỏ đá ở Lèn Rỏi (Tân Kỳ, Nghệ An) làm 2 người chết, vụ chìm ca nô tại Cần Giờ làm 9 người chết…

Bình quân, mỗi năm, ở nước ta có khoảng 500 – 600 người chết do TNLĐ. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động không thực hiện đúng các quy định về an toàn lao động, bản thân người lao động cũng không thực hiện các quy trình và do một số nguyên nhân bất khả kháng. Bên cạnh đó, vi phạm pháp luật lao động có xu hướng gia tăng, nhất là vi phạm chế độ tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội.

Nguyên nhân và giải pháp

Qua phân tích tình hình TNLĐ, BNN trong thời gian qua cho thấy một số nguyên nhân chủ yếu sau đây. Thứ nhất, công tác quản lý Nhà nước về AT-VSLĐ tuy có nhiều cố gắng, chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; một số bộ, ngành, địa phương chưa coi trọng công tác AT-VSLĐ; Sự phối hợp giữa các cơ quan ở cấp Trung ương, cấp địa phương chưa chặt chẽ, việc thực hiện các nội dung về AT-VSLĐ mang tính độc lập, đơn lẻ, chưa tạo ra dược tiếng nói chung;

Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật pháp về AT-VSLĐ chưa đến được nhiều tới người lao động. Nhiều người NSDLĐ và NLĐ chưa tiếp cận được các quy định về AT-VSLĐ. Nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của NSDLĐ và NLĐ về công tác AT-VSLĐ chưa đầy đủ đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ.

Thanh tra Bộ LĐTBXH đã tiến hành kiểm tra 147 doanh nghiệp về công tác AT-VSLĐ, cho thấy: có 59,86% doanh nghiệp tổ chức huấn luyện AT-VSLĐ cho người lao động  63,39% trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động  45,58%xây dựng các qui định vận hành thiết bị; 43,61% kiểm định đăng ký sử dụng các đối tượng có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ và 11,57%doanh nghiệp có báo cáo định kỳ về AT-VSLĐ.

Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện cả nước có 120 thanh tra về ATVSLĐ, trong khi đó số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất gần 600.000, do đó số doanh nghiệp được thanh tra hàng năm là rất ít (khoảng 3%), không đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất.

Thứ tư, Việt Nam gia nhập WTO nhưng sự tiếp cận với các qui định về ATVSLĐ của các nước trên thế giới còn hạn chế, thiếu phê chuẩn và thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực có nguy cơ cao về ATVSLĐ. Việc xử lý các vi phạm luật pháp về ATVSLĐ chưa nghiêm, không đủ sức răn đe dẫn đến tình trạng vi phạm luật pháp ATVSLĐ còn rất phổ biến, có lúc, có nơi hết sức nghiêm trọng.

Để hạn chế TNLĐ, BNN và khắc phục những tồn tại trong việc thực hiện công tác AT-VSLĐ trong những ngành có nguy cơ cao cần hoàn thiện pháp luật về AT-VSLĐ; khẩn trương xây dựng và trình cơ quan thẩm quyền ban hành Luật AT-VSLĐ và các quy định nhằm tăng cường công tác AT-VSLĐ trong các ngành có nguy cơ cao, làm cơ sở cho việc bảo đảm tính thực thi pháp luật cao trên thực tế.  

Tăng cường quản lý Nhà nước về AT-VSLĐ, rà soát lại các qui định của Bộ Luật lao động trong việc phân cấp, phân quyền quản lý về AT-VSLĐ. Trên cơ sở đó xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, Ngành, cơ quan Trung ương cũng như giữa các cơ quan địa phương với nhau.

Tập huấn công tác an toàn lao động được các đơn vị trong ngành GTVT chú trọng
Tập huấn công tác an toàn lao động được các đơn vị trong ngành GTVT chú trọng

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với công tác AT-VSLĐ. Tăng cường công tác huấn luyện AT-VSLĐ cho NLĐ trong các ngành có nguy cơ, rủi ro về AT-VSLĐ. Chú trọng vào công tác huấn luyện cho đội ngũ người làm công tác quản lí, người làm công tác ATVSLĐ và người lao động làm các nghề công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về AT-VSLĐ; thực hiện xã hội hoá công tác huấn luyện AT-VSLĐ.

Tăng cường số lượng, cải tiến phương pháp và nâng cao chất lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật pháp AT-VSLĐ để xảy ra TNLĐ nghiêm trọng để đủ sức răn đe, hạn chế các hiện tượng vi phạm tái diễn. Nghiên cứu cơ chế xử phạt và gắn được với cá nhân bị phạt (như vi phạm luật giao thông).

H.T.T

Khoảng trống trách nhiệm

Thảm họa chìm ca nô tại biển Cần Giờ ngày 3-8-2013, làm 9 người chết và mất tích, với những dấu hỏi trách nhiệm chưa được làm rõ, khiến dư luận nhớ đến vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký hồi tháng 5-2011 làm 16 người tử vong.

Hai vụ việc đáng tiếc trên và nhiều vụ tai nạn đò ngang thương tâm khác đã làm lộ ra lỗ hổng rất lớn trong quản lý vận tải đường thủy nội địa, đặc biệt tại những địa phương gần sông, biển như TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu... Sau mỗi vụ tai nạn, chủ tàu, lái tàu - chịu trách nhiệm trực tiếp tới tai nạn - có thể bị truy tố, xử lý hình sự.

Thế nhưng, cảng vụ, thanh tra GTVT địa phương, Cục Hàng hải... - không thực hiện đầy đủ chức trách theo quy định - lại chỉ dừng ở mức rút kinh nghiệm và lặp lại lời hứa siết chặt công tác kiểm tra, quản lý!

Sau vụ chìm ca nô tại biển Cần Giờ, cơ quan quản lý mới “giật mình” nhìn lại: tại sao tàu chở quá số người quy định và đang trong quá trình bảo trì, nhưng vẫn “lọt lưới” cảng vụ tự do lưu thông trên biển?

Trong cuộc họp về nguyên nhân tai nạn, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể cho rằng cần làm rõ người lái tàu có đủ bằng cấp hay không, cảng vụ có làm hết trách nhiệm, đúng quy trình xuất bến hay không? Câu hỏi đặt ngược lại với Cục Hàng hải, Bộ GTVT là nếu cảng vụ bê trễ, buông lỏng trách nhiệm, ai sẽ bị xử lý, ai sẽ chịu trách nhiệm liên đới?

Dư luận có quyền đặt ra câu hỏi này, bởi vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký cho thấy nhiều đơn vị cần chịu trách nhiệm từ đăng kiểm, thanh tra giao thông đường thủy, cảng vụ đường thủy nội địa khu vực 3 đều đã “thoát hiểm” một cách ngoạn mục.

Cũng chỉ sau vụ tai nạn, những lòng vòng, chồng chéo trong quản lý nhà nước với tàu du lịch mới bộc lộ. Quản lý về mặt vận tải do ngành giao thông, nhưng tàu du lịch hoạt động thế nào lại do ngành du lịch, địa phương quản lý. Sự chồng chéo này đã dẫn tới hệ lụy là phương tiện không đảm bảo an toàn, nhưng lại rất khó quy trách nhiệm quản lý cho từng bên khi xảy ra vụ việc.

Phải trả giá cho sự buông lỏng và mập mờ trong quản lý vận tải thủy, hàng hải hiện nay chính là tính mạng của người dân, hoặc nhà nước bị “móc túi”. Điều người dân cần không chỉ là lời hứa hay lời xin lỗi muộn màng, mà cần hơn cả là những công bộc của dân thực hiện đầy đủ, có lương tâm và nghiêm túc chức trách theo quy định, tránh lặp lại những thảm kịch tương tự.

Ngân Hà