Vai trò của ngành Y tế trong thực thi Luật An toàn vệ sinh lao động
10/06/2016 | 07:39 AM



Thành Chung
Vệ sinh lao động là một lĩnh vực quan trọng, đi sâu nghiên cứu việc quản lý, nhận dạng, đánh giá và kiểm soát nguy cơ của các tác hại nghề nghiệp đối với sức khỏe con người trong lao động; đề xuất các biện pháp cải thiện điều kiện và môi trường làm việc nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao khả năng lao động, phòng ngừa bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Bên cạnh đó, việc chăm sóc sức khỏe người lao động, tổ chức điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cũng gắn liền với trách nhiệm của Nhà nước đối với người lao động. Ngành y tế có trách nhiệm “phòng bệnh và chữa bệnh” cho người lao động khi khỏe và khi gặp tai nạn, bệnh nghề nghiệp.
Những trách nhiệm này được quy định rất rõ tại 10 khoản thuộc Điều 85 của Luật An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) 2015.
Để thực hiện trách nhiệm phòng ngừa bệnh nghề nghiệp, Bộ Y tế có trách nhiệm xây dựng, trình cơ quan Nhà nước ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về quan trắc môi trường lao động; đánh giá, kiểm soát các yếu tố có hại tại nơi làm việc; quản lý, tổ chức quan trắc môi trường lao động. Xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ATVSLĐ đối với các yếu tố vệ sinh lao động trong môi trường lao động; tham gia ý kiến về nội dung vệ sinh lao động theo khoản 5 điều 78 của Luật ATVSLĐ; hướng dẫn công tác quản lý vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp. Phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện 3 nhiệm vụ: Xây dựng nội dung huấn luyện về về sinh, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vệ sinh lao động; xây dựng tiêu chí đánh giá cho Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm; thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về vệ sinh lao động.
Thực hiện trách nhiệm chăm sóc sức khỏe người lao động, đặc biệt người mắc bệnh nghề nghiệp, Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc khám sức khỏe cho người lao động, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, giám định mức suy giám khả năng lao động, điều trị, phục hồi chức năng đối với người lao động bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp, quản lý hồ sơ sức khỏe lao động. Bộ Y tế còn phải xây dựng, ban hành và định kỳ rà soát, sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh nghề nghiệp; tổ chức giám định bệnh nghề nghiệp; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn sức khỏe cho từng loại nghề, công việc sau khi có ý kiến của các Bộ ngành liên quan; tiến hành theo dõi, tổng hợp, cung cấp thông tin về công tác vệ sinh lao động; thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về bệnh nghề nghiệp; quản lý sức khỏe người lao động tại nơi làm việc.
Triển khai những nhiệm vụ này, Bộ Y tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có việc thực hiện trách nhiệm chăm sóc sức khỏe, phát hiện điều trị bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Sau 20 năm thực hiện Luật Lao động, đến nay mới chỉ có 15-20% cơ sở lao động thực hiện các quy định này, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô lớn. Mỗi năm chỉ có gần 1.200.000 người lao động được khám sức khỏe định kỳ, chiếm khoảng 5-8% người lao động có hợp đồng lao động, 7.000 người lao động mắc bệnh nghề nghiệp được khám phát hiện và có 500 trường hợp được giám định bệnh nghề nghiệp. Đáng lo ngại là tỉ lệ người đi giám định bệnh nghề nghiệp để được hưởng chính sách bồi thường rất thấp, chỉ chiếm khoảng 17% tổng số phát hiện bệnh và đang giảm dần xuống chỉ còn 6,5% vào năm 2014. Chỉ có gần 40 tỉnh có báo cáo giám định bệnh nghề nghiệp, hơn 20 tỉnh, thành phố chưa thực hiện nhiệm vụ này. Riêng năm 2013, theo báo cáo y tế lao động của Bộ Y tế, cả nước mới chỉ khám bệnh nghề nghiệp cho 101.700 người lao động và mới khám được 21/29 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Như vậy, còn tới trên 90% người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố tác hại nghề nghiệp chưa được khám bệnh nghề nghiệp.
Khi Luật ATVSLĐ 2015 có hiệu lực, lực lượng lao động không có hợp đồng cũng được hưởng các quy định về chăm sóc sức khỏe, an toàn lao động, thì áp lực này còn lớn hơn rất nhiều. Bởi cả nước đang có khoảng 60 triệu người trong độ tuổi lao động (khoảng 30% là lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ) với hàng triệu người đang làm việc trong các điều kiện lao động có phát sinh yếu tố tác hại nghề nghiệp dẫn đến có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp.
Đây là các “bằng chứng” khiến nhiều chuyên gia cho rằng số người lao động mắc bệnh nghề nghiệp trong thực tế có thể cao gấp 10 lần so với 27.878 trường hợp mắc bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tính đến cuối năm 2013. Riêng năm 2015, các địa phương và các Bộ, ngành đã tiến hành khám 25 loại bệnh nghề nghiệp với 167.532 trường hợp được khám, tăng 56,4% so với năm 2014. Qua đó phát hiện được 8.966 trường hợp nghi mắc bệnh nghề nghiệp (tăng 31,9%), đã giám định được 636 trường hợp (tăng 45,6% so với năm 2014) trong đó có 385 trường hợp được hưởng trợ cấp một lần và 158 trường hợp được nhận trợ cấp thường xuyên.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự thiếu hụt lực lượng bác sĩ có chuyên môn khám bệnh nghề nghiệp. Theo Báo cáo Tổng kết đánh giá 20 năm thi hành pháp luật ATLĐ,VSLĐ của Bộ LĐTBXH năm 2014, trên toàn quốc các Bộ, ngành đã thành lập được 58 khoa Sức khỏe nghề nghiệp, khoa Y tế lao động và 37 tỉnh, ngành có phòng khám bệnh nghề nghiệp .Có 8 địa phương thành lập và củng cố được Trung tâm Sức khỏe môi trường lao động: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Kiên Giang. Trong tổng số 18.438 người làm công tác y tế lao động, có 750 người làm việc tại 11 đơn vị thuộc tuyến TƯ; 1.225 người làm việc tại 55 tỉnh và 1.314 người làm việc tại Khoa Sức khỏe cộng đồng của Trung tâm Y tế huyện/quận/thành phố trực thuộc tỉnh và 1000 người ở tuyến xã/phường. Mặc dù hệ thống cán bộ làm y tế lao động đã được kiện toàn từ TƯ tới xã, nhưng còn xôi đỗ ở tuyến TƯ và tuyến tỉnh. Chỉ các thành phố lớn và các địa phương công nghiệp phát triển như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Quảng Ninh, Bắc Ninh.. mới có các Trung tâm Y tế dự phòng có trên 5 bác sĩ. Nhiều tỉnh chỉ có một vài bác sĩ, thậm chí vẫn còn những tỉnh không có bác sĩ làm công tác y tế lao động.
Trước đây, một số bệnh viện như Bệnh viện E, Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội)… có khoa Bệnh nghề nghiệp tham gia khám dịch vụ, nhận điều trị bệnh nhân mắc bệnh nghề nghiệp, nhưng hiện nay gần như không hoạt động hoặc đã không khám và điều trị từ nhiều năm nay. Một khó khăn nữa là cán bộ giám định y khoa được đào tạo chuyên ngành về bệnh nghề nghiệp rất ít; việc làm thủ tục và hoàn tất hồ sơ gửi giám định phụ thuộc vào việc tuân thủ quy định của người sử dụng lao động. Dẫn đến tình trạng còn nhiều người lao động chưa khám bệnh nghề nghiệp.
Trở ngại thứ hai là đối tượng hưởng lợi là người lao động chưa thấy được đầy đủ và cũng chưa coi trọng các quyền được chăm sóc sức khỏe tại nơi làm việc. Do thói quen không chủ động trong việc tìm hiểu những quy định pháp luật nói chung, trong đó có các luật liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động từ trước đến nay, người lao động thường quan tâm nhiều đến “quyền làm việc” hơn là việc bảo vệ quyền được làm việc trong môi trường an toàn, quyền được chăm sóc, điều trị, hỗ trợ khi mắc bệnh nghề nghiệp. Trong khi đó, người sử dụng lao động do chưa quan tâm đúng mức, lo ngại chi phí khám, giám định, điều trị, nên cũng không tuân thủ đầy đủ trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các quyền lợi hợp pháp của người lao động tại cơ sở. Đây là trở ngại rất lớn khi gần 600.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trên phạm vi cả nước chưa mấy quan tâm đến môi trường làm việc an toàn như một điều kiện cần thiết để duy trì sự ổn định và thành công trong sản xuất kinh doanh.
Thực tế này đòi hỏi ngành Y tế cần có nhiều giải pháp đồng bộ, hành động quyết liệt mới có thể vượt qua những khó khăn, thách thức, thực hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý Nhà nước về y tế tại Luật ATVSLĐ.
Tin liên quan
- An toàn sức khỏe nghề nghiệp cần được tích hợp vào chiến lược chuyển đổi số
- Bộ Y tế tập huấn hướng dẫn triển khai công tác an toàn, vệ sinh lao động tại các cơ sở y tế
- Xây dựng, lập biện pháp an toàn nhằm kéo giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Hết năm 2023 có khoảng 33.000 lao động bị bệnh nghề nghiệp
- 7.000 người lao động được chẩn đoán mắc bệnh nghề nghiệp mỗi năm
- Tập huấn cập nhật kiến thức trong khám, phát hiện bệnh nghề nghiệp năm 2024
- Doanh nghiệp bị phạt gần 100 triệu đồng vì không khám bệnh nghề nghiệp cho công nhân