Bệnh điếc do tiếng ồn

21/04/2011 | 05:00 AM

 | 

Trong quá trình phát triển công nghiệp, số người lao động trong môi trường có tiếng ồn ở mức gây hại ngày một tăng. Tỷ lệ người chịu tác động của tiếng ồn gây hại ở các nước công nghiệp phát triển khoảng 25% đến 30% trong tổng số những người lao động. Do vậy số người bị điếc nghề nghiệp ngày càng tăng và trở nên phổ biến...

Bệnh điếc do tiếng ồn

BS. Vũ Cường

 

 

Trong quá trình phát triển công nghiệp, số người lao động trong môi trường có tiếng ồn ở mức gây hại ngày một tăng. Tỷ lệ người chịu tác động của tiếng ồn gây hại ở các nước công nghiệp phát triển khoảng 25% đến 30% trong tổng số những người lao động. Do vậy số người bị điếc nghề nghiệp ngày càng tăng và trở nên phổ biến...

nhiều nước tỷ lệ điếc nghề nghiệp chiếm tới 40% trong số các bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Ở nước ta tỷ lệ bệnh nhân điếc nghề nghiệp được bảo hiểm chỉ đứng sau bệnh bụi phổi - silic nghề nghiệp. Điếc nghề nghiệp là một vi chấn thương âm do tiếng ồn quá mức gây hại lên cơ quan thính giác đặc biệt là những tổn thương không hồi phục của cơ quan Corti ở tai trong.

 

Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh điếc nghề nghiệp

Nguyên nhân gây điếc nghề nghiệp cũng như các rối loạn sinh lý ở người tiếp xúc với tiếng ồn không những phụ thuộc vào bản chất tiếng ồn, các yếu tố độc hại kết hợp mà còn bởi khả năng đáp ứng của cơ thể người tiếp xúc có tính mẫn cảm, cơ địa... nhìn chung những người bị các bệnh ở tai dễ bị điếc nghề nghiệp, trừ các trường hợp bị xốp xơ tai, cứng khớp bàn đạp trong hệ thống dẫn truyền âm của tai. Những người lao động trong môi trường luyện cán thép, các máy nghiền quay và rèn búa máy... đều có thể bị tác động gây hại của tiếng ồn. Ở nước ta, các ngành sản xuất như dệt, cơ khí, điện máy, luyện kim đều xuất hiện một tỷ lệ điếc nghề nghiệp cao. Về cơ chế bệnh sinh của bệnh điếc nghề nghiệp đến nay được người ta đưa ra hai vấn đề chính là cơ chế thần kinh và cơ học: Cơ chế thần kinh đã được các tác giả nghiên cứu từ cuối thế kỷ XI. Năm 1880, Habermann quan sát thấy tiếng ồn gây nên những thương tổn ở bộ phận thần kinh của cơ quan thính giác, ngày nay người ta quan sát thấy ở những người tiếp xúc với tiếng ồn, ngưỡng đáp ứng của thần kinh thính giác tăng, dẫn đến mất khả năng nhạy cảm thông thường, dần dần không cảm ứng được với âm tần có cường độ thấp.

Cơ chế cơ học. Từ năm 1918 Vitmark đã xác định ở cơ quan thính giác người bệnh có tổn thương hệ tế bào lông tại cơ quan Corti trong giai đoạn đầu sau đó đến sự dày lên, xơ hóa màng nhĩ và toàn bộ cơ quan Corti. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các tế bào chịu áp lực âm thanh mạnh lên bề mặt tế bào cũng như các sợi lông chịu tác động thường xuyên mà dày lên và dần dần mất cảm ứng, gây nên hiện tượng trơ về mặt cơ học cũng như thần kinh và đó là điếc nghề nghiệp trong thực tế đã xảy ra. Một đặc điểm chung của điếc nghề nghiệp là bao giờ cũng thấy sự thiếu hụt thính lực ở tần số cao, đặc biệt là ở tần số 4096 Hertz sau đó mới dẫn đến các âm tần khác, tiếng ồn trong sản xuất thường là từ 2.000 Hertz trở lên. Đây sẽ là tần số chính gây tổn thương vùng đáy của loa đạo, thường thì tiếng ồn có tần số thấp sẽ gây tổn thương vùng đỉnh của loa đạo (ốc tai).

 

Chẩn đoán điếc nghề nghiệp

Để chẩn đoán xác định điếc nghề nghiệp cần dựa trên 3 cơ sở:

- Tính chất nghề nghiệp: rất quan trọng, cần phải hỏi, điều tra đầy đủ và lập hồ sơ rõ ràng chi tiết về cường độ và thời gian tiếp xúc với tiếng ồn.

Trước hết người công nhân phải làm việc ở môi trường có tiếng ồn cao hơn ngưỡng gây hại (theo vị trí lao động của người đó). Thời gian làm việc ở môi trường ồn phải được ghi lại đầy đủ, kể cả các nghề cũ có tiếng ồn, vì thời gian tiếp xúc càng lớn, khả năng bị bệnh càng nhiều và nếu đã bị từ nghề trước thì hiện nay vẫn không thay đổi.

- Khám lâm sàng: cần khám về tai mũi họng đầy đủ để chứng tỏ không có tổn thương gì về màng tai, tai giữa và xương chũm, cũng như không có tổn thương ở tiền đình vì điếc nghề nghiệp chỉ gây nên các tổn thương ở loa đạo của tai trong.

- Đo thính lực: phải thể hiện một điếc tiếp âm, đối xứng hai tai, ở từng tần số chênh lệch giữa hai tai không quá 10 dB; tuỳ theo mức độ nặng hay nhẹ sẽ có thể loa đạo đáy hay thể toàn loa đạo có hiện tượng Recuiment hay không. Sau một thời gian thính lực đồ phải không khá lên ngay cả khi nghỉ ngơi không tiếp xúc với tiếng ồn.

Cần chẩn đoán phân biệt:

+ Tai nạn lao động: những trường hợp bị điếc ngay khi mới tiếp xúc với tiếng ồn là do chấn thương âm, do quá mẫn, thiếu phản ứng thích nghi của cơ thể, được coi là tai nạn lao động.

+ Viêm nhiễm: ở màng tai không bị tổn thương cũng gây nên điếc, nhưng biểu đồ thính lực thể hiện một điếc truyền âm hay điếc hỗn hợp.

+ Xốp xơ tai: màng tai không bị tổn thương, vòi nhĩ thông nhưng thính lực đồ biểu hiện một điếc hỗn hợp (có thể có trường hợp nặng về tai trong) nghiệm pháp Gelée dương tính.

+ Chấn thương: có thể gặp do chấn thương âm: có tiền sử, bị đột ngột, cũng là điếc tiếp âm có thể một hay hai tai nhưng thường diễn biến nhanh, điếc nặng hay điếc đặc ngay và thường có kèm theo tổn thương tiền đình.

+ Nhiễm độc tai trong: thường gặp do hóa chất hay do thuốc như Streptomycin, quinin... không có tổn thương thực thể, điếc tiếp âm, tiến triển nhanh chóng, nhưng đôi khi cũng kéo dài hàng tháng hay lâu hơn làm cho việc chẩn đoán khó khăn. Chủ yếu dựa vào khai thác tiền sử và các biện pháp trên ngưỡng;Phòng hộ và giám định điếc nghề nghiệp; Cần có những phương pháp dự phòng và xử trí sớm cho người bệnh gồm hai lĩnh vực phòng hộ: kỹ thuật và y tế.

 

Phòng hộ kỹ thuật

Các biện pháp phòng hộ kỹ thuật nhằm giảm nguồn sinh ra tiếng ồn như chống và chạm, ma sát, sử dụng các vật liệu, công cụ mềm thay kim loại cứng...

Thu hồi, triệt tiêu nguồn âm: được thực hiện qua các ống, hộp giảm âm để làm bớt cường độ nguồn âm đã sinh ra.

Cách ly, chống phản hồi, cộng hưởng âm: bao gồm các biện pháp về kỹ thuật và thiết kế nhằm cô lập, cách ly nguồn âm hay hấp thụ bớt âm đã sinh ra. Tuy nhiên hiện nay các biện pháp kỹ thuật trên thường ít có hiệu quả vì thực hiện khó khăn phức tạp và nhất là thường không phù hợp, ảnh hưởng tới quy trình sản xuất.

 

Phòng hộ y tế

Hiện đang được tập trung nghiên cứu. Dụng cụ phòng hộ: có nhiều loại nhưng tập trung trong hai loại hình chính. Nút tai có định hình hay không định hình. Loa che tai đơn giản hay phức tạp như một mũ che cả tai và đầu. Các loại dụng cụ này thường làm giảm từ 20 đến 45dB, như vậy sẽ đưa cường độ có hại xuống dưới mức gây hại. Một yêu cầu cơ bản là các dụng cụ trên phải khít chặt nhưng không gây khó chịu, kích thích tai và không ảnh hưởng gì đến khả năng lao động. Tổ chức lao động nghỉ ngơi nhằm làm cho tai thích ứng được với tiếng ồn, không bị tình trạng quá mệt mỏi. Hiện nay người ta thống nhất là nên rút ngắn thời gian lao động trong một ngày hơn là rút ngắn thời gian trong một tháng hay một năm, nhưng số lần và thời gian nghỉ ngơi trong một ngày thì còn chưa thống nhất cụ thể. Vai trò của thể dục, thể thao trong phòng hộ tiếng ồn là khá quan trọng vì nó là cơ sở cho các cơ ở vùng tai to khỏe ra nên sẽ có lợi cho việc bảo vệ tai trong khi tiếng ồn quá mạnh. Việc tạo thời gian cho tai thích ứng, không bị co cứng các cơ bảo vệ tai trong trước tiếng ồn quá đột ngột cũng là cần thiết. Chế độ nghỉ ngơi cần được tạo điều kiện để sau giờ lao động công nhân có thể nghỉ ngơi yên tĩnh, hoặc nghe nhạc nhẹ, có cường độ thích hợp nhằm cho tai được phục hồi trở lại nhanh sau những giờ tiếp xúc với tiếng ồn.

Các trường hợp suy giảm thính lực, điếc nghề nghiệp cần được lập hồ sơ cho giám định khả năng lao động vì bệnh này không hồi phục. Trước hết phải đánh giá sức nghe sau đó mới đánh giá khả năng lao động do mất khả năng nghe.

 

Những người lao động trong môi trường luyện cán thép, các máy nghiền quay và rèn búa máy... đều có thể bị tác động gây hại của tiếng ồn. Ở nước ta, các ngành sản xuất như dệt, cơ khí, điện máy, luyện kim đều xuất hiện một tỷ lệ điếc nghề nghiệp cao.