Phương thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế

10/10/2014 | 07:03 AM

 | 



1. Xây dựng, ban hành chiến lược, chương trình quốc gia, kế hoạch hằng năm giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

a) Xây dựng, ban hành pháp luật về y tế

            Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế gồm 1137 văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các hoạt động y tế. Như vậy, ngành y tế đã có được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh liên quan đến lĩnh vực y tế như: Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, Luật Dược năm 2005, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế năm 2014 cùng hàng loạt các VBQPPL khác hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh trên.

            Tuy nhiên, so với yêu cầu quản lý, vẫn chưa có luật để điều chỉnh các vấn đề: an toàn truyền máu; phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia; quản lý trang thiết bị, sức khoẻ tâm thần, phòng chống tai nạn thương tích... 

b) Xây dựng, ban hành chính sách về y tế

            "Chính sách công là một chuỗi các quyết định hoạt động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định".

            Trước đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số chính sách như chính sách quốc gia về thuốc, Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá ... nhưng nay lại có xu hướng chuyển sang công cụ kế hoạch. Ví dụ như Chiến lược quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá đến năm 2020  hay Chiến lược quốc gia về phát triển ngành dược… Hiện nay, chỉ còn 01 chính sách là Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 12/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ.

            Như vậy, ở các quốc gia khác, người ta chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật và chính sách nhưng ở nước ta, trong lĩnh vực y tế, công cụ chính sách lại ít được sử dụng. Mặt khác, về hình thức các chính sách và chiến lược đều tương đối giống nhau nên khó phân biệt sự khác nhau giữa chính sách và chiến lược.

c) Xây dựng, ban hành kế hoạch về y tế

            "Kế hoạch là các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định do Nhà nước đặt ra". Hệ thống kế hoạch của Nhà nước bao gồm: Chiến lược (hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa hệ thống đạt đến các mục tiêu dài hạn); Quy hoạch (tổng thể các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực để thực hiện mục tiêu theo không gian và thời gian); Các kế hoạch trung hạn (thường là kế hoạch 5 năm để cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược); Các chương trình mục tiêu (được xây dựng rất phổ biến nhằm xác định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng để thực hiện một ý đồ lớn, một mục đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương trình thường gắn với ngân sách cụ thể cần thiết, có nhiều chương trình bộ phận và được giao cho những đơn vị khác nhau thực hiện); Các kế hoạch năm (cụ thể hoá nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược, vào kế hoạch trung hạn, vào kết quả nghiên cứu để điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch) và các dự án (nhằm triển khai, thực thi các chương trình mục tiêu).

            - Trong lĩnh vực y tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khá nhiều chiến lược như: Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 , Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 .. Đây là các chiến lược mang tính tổng thể về ngành y tế. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực, Thủ tướng Chính phủ lại ban hành các chiến lược riêng như Chiến lược quốc gia về phát triển ngành dược giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Chiến lược về Chăm sóc sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020  và một số chiến lược khác. Như vậy, việc ban hành các chiến lược trên dẫn đến chồng chéo về mục tiêu, giải pháp và làm cho việc triển khai thực hiện bị phân tán.

            - Bên cạnh đó, về quy hoạch, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020  nhưng sau đó lại chuẩn bị có thêm quy hoạch khác như Quy hoạch phát triển 5 bệnh viện tuyến Trung ương… dẫn đến tính thống nhất của hệ thống quy hoạch bị thay đổi. Mặt khác, một số địa phương cũng không tuân thủ đúng quy hoạch này làm cho quy hoạch bị ảnh hưởng.

            - Về chương trình mục tiêu quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2012-2015 , Chương trình mục tiêu y tế quốc gia, Chương trình mục tiêu quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2012-2015 . Các chương trình mục tiêu quốc gia đã góp phần tăng thêm nguồn kinh phí cho việc thực hiện các mục tiêu trọng điểm về y tế mà Nhà nước cần giải quyết nhưng theo Kế hoạch cải cách tài chính công đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì dần dần Nhà nước sẽ cắt bỏ khoản chi này vì việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên thường dễ làm cho các địa phương ỷ lại vào nguồn tài chính từ Trung ương mà không chịu đầu tư cho y tế từ ngân sách của tỉnh.

2. Nhà nước là nòng cốt, kết hợp xã hội hóa trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

            Hoạt động y tế là một trong những hoạt động thể hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nên Nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt trong việc định hướng cũng như thực thi các chính sách, pháp luật về y tế. Để thể hiện vai trò nòng cốt này, Nhà nước đã tập trung ngân sách trong khả năng có thể cho lĩnh vực y tế để chi cho phát triển hệ thống y tế công, trong đó có xây dựng cơ bản, trang thiết bị, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực y tế. Tuy nhiên, do ngân sách không đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành y tế nên Nhà nước đã thực hiện chủ trưởng xã hội hóa công tác y tế nhằm huy động các nguồn lực của xã hội tham gia, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh. Thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, tới nay, hầu hết các bệnh viện công lập sẽ được chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ, cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, không bao cấp tràn lan và không nhằm mục đích lợi nhuận, đồng thời phát triển mạnh các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân, trong đó có phát triển các bệnh viện tư nhân. Việc xã hội hóa này đã tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Rõ ràng, chủ trương này chủ yếu dựa vào các lợi ích vật chất, các đòn bảy kinh tế để dung hoà các lợi ích của đội ngũ CCVC y tế, của tập thể và của Nhà nước bằng cách xác lập cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ sở KCB công, nâng cao chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh, phát triển y tế tư nhân, từng bước thực hiện BHYT toàn dân để thúc đẩy việc dành ngân sách y tế chi cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách. Đây là phương pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý trong lĩnh vực y tế.

            Tuy nhiên, chủ trương xã hội hóa cũng đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ như chế độ tự chủ về tài chính đã làm cho một số bệnh viện công lạm dụng kỹ thuật cận lâm sàng, giữ người bệnh… dẫn đến quá tải ở tuyến trên hay liên doanh, liên kết đặt trang thiết bị dẫn đến vấn đề đa sở hữu trong nội bộ bệnh viện, vấn đề minh bạch hóa tài chính công cũng khó xác định. Bên cạnh đó, việc tự chủ về nhân lực cũng ảnh hưởng đến cơ cấu bác sỹ với điều dưỡng viên, kỹ thuật viên. Một số bệnh viện chủ yếu tuyển dụng bác sỹ mà ít tuyển dụng điều dưỡng viên nên vấn đề chăm sóc người bệnh toàn diện cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, xã hội hóa cũng chỉ tập trung nhiều ở khu vực khám bệnh, chữa bệnh mà ít phát huy ở khu vực dự phòng vì lý do lợi nhuận. Một vấn đề nữa cũng được đặt ra là trong lĩnh vực y tế công, các khuyết tật xã hội nảy sinh nhiều hơn so với khu vực tư nhân như vấn đề thái độ phục vụ người bệnh, vấn đề y đức, vấn đề xây dựng cơ bản, đấu thầu thuốc…

3. Nhà nước là người tổ chức, chịu trách nhiệm cao nhất về chất lượng, hiệu quả giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

            Nhà nước trong bất kỳ thể chế chính trị nào, hình thái tổ chức nào cũng đều là người tổ chức và chịu trách nhiệm cao nhất về chăm sóc sức khỏe cho người dân và Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên, tuy theo mô hình tổ chức nhà nước, vấn đề trách nhiệm thực hiện được phân công khác nhau. Mô hình nhà nước Việt Nam là đơn nhất nên việc phân công trách nhiệm cũng khác nhau. Bộ trưởng Bộ Y tế là tư lệnh ngành nhưng không phải là người chịu trách nhiệm duy nhất về vấn đề chất lượng, hiệu quả của công tác y tế. Do đó, phải thực hiện nguyên tắc "Kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý nhà nước theo lãnh thổ". Xuất phát từ việc phân định chức năng khác nhau giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương.

            Chính quyền địa phương có hai tư cách:

            - Là người thực hiện quyền làm chủ trực tiếp trong phạm vi địa phương của nhân dân sống và làm việc trên đơn vị hành chính – lãnh thổ, đại biểu cho quyền lợi của nhân dân ở địa phương.

            - Là một bộ phận của quyền làm chủ trên phạm vi cả nước của nhân dân sống và làm việc trên lãnh thổ, là bộ phận của quyền lực nhà nước thống nhất không phân chia, tức là người đại diện của Nhà nước trung ương ở địa phương. Do đó, chính quyền địa phương vừa phải phục tùng vừa phải làm chủ, tính chủ động sáng tạo rất cao của chính quyền và của nhân dân ở địa phương; vừa phục tùng và bảo đảm lợi ích chung của Nhà nước, vừa bảo đảm lợi ích của địa phương; hai mặt kết hợp hài hòa trên lãnh thổ, trong cùng một thể thống nhất.

            Chức năng quản lý của Nhà nước Trung ương là quản lý toàn diện, (thẩm quyền chung của Chính phủ) hoặc ngành, lĩnh vực (thẩm quyền riêng của Bộ) trên phạm vi cả nước. Còn chức năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương theo thẩm quyền chung là quản lý trên phạm vi đơn vị hành chính - lãnh thổ. Hai loại chức năng đó không tách biệt nhau; không phải Bộ chỉ quản lý theo ngành mà không có trách nhiệm quản lý theo lãnh thổ cũng như không phải chính quyền địa phương chỉ quản lý theo lãnh thổ tách khỏi quản lý ngành.

            Trên cơ sở xác định nội dung quản lý nhà nước theo ngành, quản lý nhà nước theo lãnh thổ và phân tích chức năng quản lý nhà nước về y tế cho thấy nhất thiết phải kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý nhà nước theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng quản lý, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung, mức độ quản lý theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả nước, của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát  triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa phương trong sự phát triển một cách có lợi nhất những lợi thế của địa phương. Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản lý chủ yếu được thể hiện:

            - Tổ chức sự điều hòa, phối hợp các hoạt động y tế trên phạm vi cả nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ, nhằm xây dựng và phát triển hệ thống y tế một cách đồng bộ.

            - Quản lý công việc chung, lợi ích chung của Nhà nước về sự nghiệp y tế, kết hợp hài hòa lợi ích chung cả nước và lợi ích của từng địa phương.

            - Quản lý và phục vụ tốt những tổ chức và hoạt động của các cơ quan y tế trực thuộc Bộ Y tế và các bộ, ngành khác đóng trên trên lãnh thổ để cũng chăm lo cho sức khỏe của nhân dân địa phương.

            - Song trùng trách nhiệm quản lý nhà nước giữa Bộ Y tế với UBND tỉnh.

            Sự kết hợp giữa quản lý theo ngành của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và quản lý trên đơn vị hành chính lãnh thổ của chính quyền địa phương về y tế được pháp luật quy định; các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương chấp hành không được tùy tiện, thay đổi hay làm trái.

            Tuy nhiên, vấn đề ai, tổ chức chịu trách nhiệm cao nhất nếu xảy ra những vấn đề về y tế lại cần phải bàn luận thêm như:

            - Chế độ tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công chức, viên chức y tế

            Trên cơ sở Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và theo phân cấp quản lý, việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công chức, viên chức y tế đều thuộc về thẩm quyền của chính quyền địa phương, Bộ Y tế không có thẩm quyền can thiệp và khi các tiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức y tế do Bộ Y tế, Bộ Nội vụ ban hành mà địa phương thực hiện chưa đúng, Bộ Y tế cũng chỉ kiến nghị mà không có thẩm quyền giải quyết cụ thể.

            - Chế độ tài chính dành cho công tác y tế

            Theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện nay, các tỉnh đều được quyền phân chia ngân sách được cấp cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế… trên địa bàn tỉnh. Trong lĩnh vực y tế, để tuân thủ quy chuẩn bệnh viện, cơ sở y tế, các quy định chuyên môn, kỹ thuật y tế, ngân sách của tỉnh phải đáp ứng đầy đủ để thực hiện đúng các quy định đó. Ngoài ra, Nhà nước còn có cơ chế chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quốc tế (viện trợ, vốn vay ODA), trái phiếu Chính phủ để chi cho hệ thống y tế ngoài nguồn ngân sách nhà nước. Như vậy, rõ ràng chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm về các điều kiện kinh phí cho hoạt động y tế trên địa bàn lãnh thổ phụ trách.

            - Tổ chức thi hành pháp luật về y tế

            Với phương thức quản lý hiện nay, chính quyền địa phương được toàn quyền tổ chức thi hành pháp luật trên địa bàn và chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề y tế xảy ra.

            Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác thanh tra, kiểm tra, mối quan hệ phối hợp giữa Sở Y tế với UBND huyện, xã cần phải được tiến hành đồng bộ dưới gậy chỉ huy của UBND tỉnh.

            Vấn đề cơ bản là các cơ sở y tế, các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về y tế.

            - Trách nhiệm công vụ trong quản lý nhà nước về y tế

            Mô hình hệ thống tổ chức nhà nước hiện nay là phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: Các cơ sở y tế vừa trực thuộc Bộ về quản lý chuyên môn y tế, vừa trực thuộc lãnh đạo địa phương về tổ chức, nhân lực, tài chính…. Mô hình này còn được gọi là mô hình Xô viết (Bộ thì quản lý ngành dọc, địa phương quản lý ngành ngang). Song trùng trực thuộc thì chế độ trách nhiệm phải được xác lập song trùng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định trách nhiệm công vụ chưa rõ ràng, cụ thể, minh bạch nên khi có vấn đề xảy ra, việc quy trách nhiệm công vụ không dễ. "Vừa qua, quá bức xúc trước cách quản lý của một giám đốc sở, một Bộ trưởng cũng chỉ làm được một việc duy nhất là “dọa” sẽ đề nghị cách chức. Trong một mô hình như vậy, quy trách nhiệm cho Bộ trưởng không chỉ rất khó khăn, mà còn rất không công bằng" . Như vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải luật hóa trách nhiệm công vụ để quy trách nhiệm tập thể, cá nhân (Bộ trưởng, Giám đốc Sở, UBND…) một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch trên cơ sở giám sát của nhân dân và các cơ quan chức năng theo mô hình tổ chức nhà nước đã được Hiến định hiện nay.

4. Quản lý theo pháp luật kết hợp thuyết phục, động viên, khuyến khích các chủ thể tham gia giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

            Để xây dựng nền y tế Việt Nam công bằng, hiệu quả và phát triển, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ (CSSK) ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng cao của nhân dân đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả của việc QLNN bằng pháp luật, góp phần đưa các hoạt động y tế vào trật tự, kỷ cương, kỷ luật và phát triển ổn định. Bên cạnh việc đưa pháp luật về y tế vào cuộc sống, phải gắn thuyết phục, động viên, khuyến khích các chủ thể tham gia giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế. 

            Phương pháp giáo dục, thuyết phục được áp dụng chủ yếu trên cơ sở đặc thù của ngành y tế là nhân đạo, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người nên phải đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng về hành nghề y trên cơ sở y đức, y đạo. Đây là phương pháp luôn được đặt lên hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Như đã phân tích về đặc trưng của các hoạt động y tế trên đây, dịch vụ y tế cũng có sự khác biệt so với các dịch vụ, hàng hóa thông thường khác. Người bệnh thường phó mặc sức khỏe, bệnh tật của mình, tin tưởng vào thầy thuốc và nhân viên y tế, kể cả mua thuốc chữa bệnh. Do đó, cần biểu dương kịp thời các cá nhân, tổ chức có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp cho sự nghiệp BV, CS & NCSKND bằng các hình thức khen thưởng thích hợp, tạo thành phong trào thi đua trong toàn ngành y tế. Bên cạnh đó, mặt trái của phát triển kinh tế thị trường có nguy cơ làm phai mờ giá trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc như tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh, nhận tiền hoặc các lợi ích vật chất khác của người bệnh, các hành vi cản trở hoặc gây khó khăn cho người hành nghề y, dược tư nhân... Các hành vi trên đã và đang gây tác hại xấu đến uy tín của ngành y tế hoặc làm tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của người dân. Bởi vậy, để hạn chế những bất cập này, một mặt, các hoạt động y tế cần phải được pháp luật quy định hết sức cụ thể để kiểm soát và ngăn chặn, đưa toàn bộ hoạt động này vào trật tự, kỷ cương, kỷ luật. Mặt khác cần phải không ngừng giáo dục, nâng cao y đức vì nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi công chức, viên chức ngành  y tế phải không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là người mẹ hiền”.

5. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

a) Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế

            Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế là một biện pháp quan trọng để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, khắc phục, phòng ngừa những vi phạm pháp luật. Kiểm tra nhằm mục đích nhắc nhở, giáo dục cho CCVC y tế tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh theo pháp luật; phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong các VBQPPL để đề nghị bổ sung, sửa đổi, phát hiện những hành vi sai lệch trong việc thực hiện pháp luật; có biện pháp uốn nắn, khắc phục và phát hiện những việc làm vi phạm pháp luật; có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời; đồng thời phát hiện những điển hình thực hiện pháp luật tốt để động viên, khen thưởng. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:

            - Hiện tại, Bộ Y tế, các Sở Y tế, các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế đều tổ chức kiểm tra trong phạm vi quản lý hoặc khi có sự chỉ đạo của cấp trên hoặc khi có vụ việc xảy ra do các cơ quan thông tin đại chúng cung cấp nhưng đều chưa có kế hoạch, chưa chủ động trong công tác kiểm tra nên thường bị động và mang tính đối phó.

            - Qua thực tiễn, Bộ Y tế, Sở Y tế thường tiến hành kiểm tra thực hiện pháp luật về y tế theo định kỳ 6 tháng hoặc một năm một lần và chỉ tiến hành kiểm tra đột xuất khi có vụ việc xảy ra nên công tác kiểm tra thường không bài bản, mục đích kiểm tra chưa theo chuyên đề cụ thể, chưa có quy trình kiểm tra cụ thể... 

            - Việc kiểm tra hiện nay đều theo cùng một phương thức là đơn vị được kiểm tra báo cáo, sau đó các thành viên trong Đoàn kiểm tra hỏi, đi thị sát đơn vị và sau đó đưa ra nhận xét, kết luận, cũng như chưa xây dựng bảng kiểm theo từng chuyên đề kiểm tra, căn cứ vào các quy định pháp luật để đưa ra bảng hỏi và chấm điểm cụ thể nên hoạt động này còn mang tính hình thức, kết quả kiểm tra không được định lượng và không phân loại được mức độ thực thi pháp luật của các đơn vị, địa phương.

            - Việc chỉ đạo các đơn vị dưới quyền thực hiện tự kiểm tra mới chỉ được phổ biến, nhắc nhở trong các hội nghị hoặc các đợt công tác mà chưa có chỉ đạo cụ thể bằng văn bản nên việc tự kiểm tra của các đơn vị ít được quan tâm tiến hành. 

            - Sau khi kiểm tra, hầu hết các điểm yếu kém chỉ bị nhắc nhở, không phát hiện được sai phạm lớn, chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật hoặc đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền XPVPHC nên công tác kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế còn mang tính hình thức, xuê xoa, chưa thể hiện được tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật y tế. 

b) Việc thanh tra thực hiện pháp luật về y tế

            Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước nhằm làm tốt công tác quản lý, giúp cho việc thực thi pháp luật được tiến hành một cách có hiệu quả.  Việc thanh tra các hoạt động y tế tập trung vào những vấn đề chủ yếu như tiến hành thường xuyên các hoạt động thanh tra chuyên ngành về y tế theo thẩm quyền, tập trung vào các chế độ, quy tắc chuyên môn, kỹ thuật y tế, các thủ tục hành chính trong KCB, các hoạt động của các cơ sở y, dược tư nhân và khi phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về y tế, cơ quan thanh tra y tế, thanh tra viên y tế và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt phải xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động y tế, bảo đảm trật tự, kỷ cương; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến y tế. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:

            - Trên cơ sở Luật Thanh tra, hệ thống thanh tra chuyên ngành về y tế đã được thiết lập ở Bộ Y tế, Sở Y tế nhưng chưa có cơ sở pháp lý cho việc thiết lập tổ chức thanh tra chuyên ngành ở tuyến huyện, xã nên việc kiểm soát ATTP, hành nghề y tế tư nhân...không được hiệu quả.

            - Hằng năm, Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế đều có kế hoạch thanh tra, thực hiện phối hợp liên ngành trong thanh tra nhưng còn bị động, hiệu quả chưa cao, hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước chưa được chú trọng và đủ mạnh trong việc tự phòng ngừa các vi phạm pháp luật về y tế.         

            - Hiện cả nước có 229 thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế nên số lượng này còn quá thấp so với chức năng, nhiệm vụ được giao. Chất lượng thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế cũng còn hạn chế về kỹ năng, kinh nghiệm thanh tra do 25,2% người chưa được đào tạo về nghiệp vụ thanh tra, 14,2% người mới được tập huấn nghiệp vụ thanh tra trên 1 tháng... nên đã ảnh hưởng không ít đến quá trình hoạt động và kết quả thanh tra. 

c) Xử lý vi phạm

            Việc xử lý này thực chất là bảo vệ các giá trị của pháp luật về y tế không bị vi phạm trong thực tiễn cuộc sống, giúp cho công tác QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế đạt hiệu quả cao hơn.

            Các hành vi vi phạm pháp luật gắn với từng loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như sau: Tội phạm và trách nhiệm hình sự; vi phạm pháp luật dân sự và trách nhiệm dân sự; vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính; vi phạm kỷ luật và trách nhiệm kỷ luật. Tiếp cận dưới góc độ khoa học quản lý hành chính công nên Luận án này không nghiên cứu vấn đề xử lý trách nhiệm hình sự và xử lý trách nhiệm bồi thường dân sự. 

            Vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là những hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về QLNN trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) trong lĩnh vực y tế phải dựa trên cơ sở của pháp luật hiện hành về XPVPHC liên quan đến y tế dự phòng, ATTP, KCB, thuốc, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế phải theo đúng các hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt. 

            Xử lý kỷ luật đối với CCVC là một trong những công cụ, biện pháp quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển và sử dụng đội ngũ CCVC. Việc xử lý kỷ luật đối với CCVC phải bảo đảm theo đúng các hình thức kỷ luật, bảo đảm khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng thời hiệu và theo đúng các trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về CCVC. 

Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:

            * Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế

            - Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế đều bảo đảm đúng thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự, thủ tục XPVPHC nhưng ngoài thanh tra viên y tế, quản lý thị trường thì việc áp dụng thẩm quyền này của chủ tịch UBND các cấp, công an còn rất hạn chế. 

            - Việc XPVPHC về y tế đã bảo đảm đúng hình thức và mức phạt theo quy định của pháp luật nhưng có sự nương nhẹ trong XPVPHC, chưa có sự công bằng trong XPVPHC. 

            - Đa số các đối tượng bị XPVPHC trong lĩnh vực y tế đã nghiêm chỉnh chấp hành quyết định xử phạt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng cũng có trường hợp chưa tự giác chấp hành quyết định XPVPHC, việc thực hiện cưỡng chế trên thực tế cũng rất khó khăn do người vi phạm quá nghèo, nếu cưỡng chế thì chi phí để cưỡng chế lại cao hơn giá trị tài sản đó.

* Việc xử lý kỷ luật đối với CCVC vi phạm pháp luật về y tế

            - Việc xử lý kỷ luật đối với CCVC vi phạm pháp luật về y tế chủ yếu căn cứ theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xử lý kỷ luật lại căn cứ thêm vào quy định 12 điều y đức do Bộ Y tế ban hành hoặc theo Nghị quyết Đại hội CNVC của đơn vị. 

            - Việc xử lý kỷ luật đối với CCVC vi phạm pháp luật về y tế nhìn chung đều đúng thẩm quyền nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xem xét kỷ luật đã để kéo dài quá lâu nên có một số vụ việc bị hết thời hiệu kỷ luật hoặc có một số bộ phận khoa, phòng trong đơn vị khi phát hiện vi phạm chế độ kỷ luật đã tự giải quyết nội bộ sai với thẩm quyền quy định. 

            - Việc xử lý kỷ luật đối với CCVC vi phạm pháp luật về y tế đều bảo đảm  nguyên tắc, trình tự thủ tục nhưng có một số đơn vị ghi biên bản kỷ luật lại sơ sài, đơn giản, không ghi rõ hành vi sai phạm tương xứng với hình thức kỷ luật nên đã có trường hợp kiện ngược sau khi đã quyết định kỷ luật. 

            - Các hành vi vi phạm kỷ luật chủ yếu là gây mất đoàn kết nội bộ kéo dài trong đơn vị, sa sút về phẩm chất đạo đức, y đức, thoái hoá biến chất,   nghiện ma túy; thu tiền người bệnh sai nguyên tắc tài chính; vi phạm quy chế chuyên môn, vi phạm kỷ luật lao động...  nhưng để định rõ các hành vi cụ thể phải bị xử lý kỷ luật thì chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. 

            - Việc áp dụng các hình thức kỷ luật đều bảo đảm công bằng, đúng người, đúng hành vi vi phạm nhưng có đơn vị còn áp dụng hình thức giảm mức xếp loại lao động, cắt tiền thi đua (A,B,C) hàng tháng, trừ tiền thu nhập tăng thêm và tiền thưởng đối với CCVC vi phạm giờ giấc lao động, vi phạm quy chế trực... hoặc còn vận dụng hình thức phê bình trước tập thể không ghi lý lịch hoặc kéo dài thời gian nâng lương, không cử đi học... 

            - Khi CCVC y tế làm mất mát, hư hỏng hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của Nhà nước hoặc gây thiệt hại cho người khác đều được các cơ quan, đơn vị xử lý bồi thường trách nhiệm vật chất nhưng có một số đơn vị còn chưa thực hiện được việc này, chủ yếu là không thu hồi lại được chi phí đào tạo theo quy định đối với trường hợp được hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng sau khi học xong lại không trở về làm việc. 

d) Tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế.

            Việc tôn vinh thành tích trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế được thể hiện qua các phong trào thi đua yêu nước và khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân. Tuy nhiên, phương thức này cần phải xem xét một cách nghiêm túc vì phần lớn khen thưởng không qua phong trào thi đua và nếu có phát động thi đua thì lại hình thức nên không linh thiêng hóa việc tôn vinh.

Trích: Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về Y tế số 3 tháng 9/2014​


Thăm dò ý kiến