Tầm soát ung thư ở phụ nữ

24/10/2019 | 16:53 PM

 | 

Cũng như nam giới, phụ nữ rất dễ mắc các bệnh ung thư: đại trực tràng, phổi, dạ dày, gan... và một số loại ung thư phổ biến liên quan nhiều đến yếu tố giới tính là ung thư vú, ung thư phụ khoa (bao gồm cổ tử cung, tử cung, buồng trứng…).

Cũng như nam giới, phụ nữ rất dễ mắc các bệnh ung thư: đại trực tràng, phổi, dạ dày, gan... và một số loại ung thư phổ biến liên quan nhiều đến yếu tố giới tính là ung thư vú, ung thư phụ khoa (bao gồm cổ tử cung, tử cung, buồng trứng…). Hai loại bệnh ung thư này chiếm tới hơn một phần ba trong tổng số nữ giới mắc ung thư.

Chụp kiểm tra bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh viện K Hà Nội.

Theo số liệu của Ghi nhận ung thư toàn cầu (GLOBOCAL), tại Việt Nam, năm 2018 có khoảng 165 nghìn người mắc ung thư mới, 115 nghìn người chết do bệnh ung thư, hơn 300 nghìn người đang sống chung với bệnh ung thư. Với sự phát triển của y học, ung thư là bệnh có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Cho đến nay, kết quả điều trị ung thư lệ thuộc chủ yếu vào việc phát hiện bệnh ở giai đoạn nào. Phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm là vô cùng quan trọng, là cơ hội may mắn để chữa khỏi bệnh. Vì vậy, người dân, nhất là những người sau tuổi 40 hay có yếu tố nguy cơ cao, tiền sử gia đình có người mắc ung thư, cần khám sức khỏe định kỳ, sàng lọc phát hiện sớm ung thư.

Hiện nay, tại Bệnh viện K cũng như nhiều cơ sở y tế chuyên khoa có những gói khám tầm soát các loại ung thư phổ biến như ung thư vú, cổ tử cung, buồng trứng, ung thư đại trực tràng, dạ dày, gan, phổi, tiền liệt tuyến...

Theo GS,TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K, tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 75 nghìn phụ nữ phải gánh chịu căn bệnh ung thư, trong đó chỉ riêng tính ung thư vú và ung thư phụ khoa chiếm tới 34% tổng số ca mắc ung thư ở nữ giới. Trong các loại ung thư ở nữ giới, ung thư vú, cổ tử cung đều có thể sàng lọc và phát hiện sớm. Ung thư vú là bệnh có thể phát hiện sớm nhất. Người bệnh ung thư vú nếu phát hiện sớm ở giai đoạn 1 thì tỷ lệ sống trên 5 năm là 100% (nhiều trường hợp sống 10 năm, 15 năm, thậm chí có những người lập gia đình, sinh con), với ung thư cổ tử cung là từ 80 đến 93%, ung thư đại trực tràng là 88%... Tuy nhiên, nếu phát hiện muộn khi bệnh đã di căn, việc điều trị sẽ không mang lại hiệu quả cao. Thế nhưng trong cộng đồng, nhiều phụ nữ vẫn chưa có kiến thức về phương pháp tự khám tại nhà và ý thức được tầm quan trọng của việc đi khám sàng lọc ung thư vú định kỳ, cho nên phần lớn người bệnh đến khám và điều trị đã ở giai đoạn muộn, khả năng chữa khỏi thấp, chi phí điều trị tốn kém và kéo dài. Ðáng lưu ý, các chị em có thể không nhận thấy các triệu chứng ung thư, hoặc có thể bỏ qua, cho rằng chúng ít nghiêm trọng. Nhưng khi có một số triệu chứng kéo dài, chúng có thể là dấu hiệu của ung thư vú hoặc phụ khoa, chị em phụ nữ cần đến các cơ sở y tế uy tín để được khám, tư vấn và chẩn đoán. Với những chị em có nguy cơ cao (trong gia đình có mẹ hoặc chị, em gái mắc ung thư vú, đột biến gien BRCA1/BRCA2, tuổi có kinh sớm, không sinh con…) nên đi khám, tầm soát sớm hơn.

Ngày nay, các cơ sở y tế đã ứng dụng các kỹ thuật mới làm cho việc tầm soát, phát hiện sớm ung thư trở nên dễ dàng và khả thi hơn, như chụp nhũ ảnh và MRI cho ung thư vú, phiến đồ âm đạo ‘PAP test’ và HPV test cho ung thư cổ tử cung, FOB test và nội soi cho ung thư đại trực tràng, chụp CT liều thấp cho ung thư phổi… Với ung thư cổ tử cung, các chị em nên tiêm vắc-xin phòng trong độ tuổi từ 9 đến 26 (vắc-xin phòng nhiễm HPV), vắc-xin phòng viêm gan B (HBV). Bên cạnh đó, hãy tránh xa thuốc lá, hạn chế đồ uống có cồn, tập thể dục thường xuyên và xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý với nhiều rau quả, ngũ cốc, hạn chế đường, tinh bột, đồ chiên, xào, thực phẩm đóng hộp... để nâng cao sức khỏe, phòng ngừa ung thư./.


Thăm dò ý kiến